Thục Địa – rễ chín đen mềm, bổ huyết tư âm, làm dày lại sinh lực đang hao tổn

Không có ánh vàng của hoàng kỳ, không thơm như nhân sâm, không cay nồng như phụ tử – Thục Địa Hoàng âm trầm – mềm nhũn – đen nhánh – như một khối trầm tích lâu năm trong mạch đất.
Vị thuốc ấy không xốc dậy người bệnh trong một ngày, nhưng ngấm sâu từng chút một, làm đầy lại phần tinh huyết hư tổn, giúp cho người suy nhược, máu ít, da xanh, đầu choáng – từ từ hồi sinh.
Giai thoại – chuyện người con gái yếu mỏi và vị thuốc đen như bùn đất
Người con gái ấy da xanh, hay chóng mặt, máu kinh ít, môi nhợt. Gặp thầy thuốc, ông không cho thuốc bổ khí hay khai khiếu, mà chỉ lặng lẽ viết đơn: Thục Địa – Đương Quy – Bạch Thược – Xuyên Khung.
Cô uống đều mỗi tháng, vài mùa sau sắc diện hồng hào. Người thân hỏi, cô đáp: “Chỉ là củ rễ đen mềm như đất, nhưng thứ ấy nuôi máu tôi, không gắt – mà bền.”
Nguồn gốc của vị thuốc
Thục Địa Hoàng là Sinh Địa Hoàng (rễ cây Địa Hoàng – Rehmannia glutinosa), sau khi rửa sạch, chưng với rượu hoặc nước gừng từ 9 đến 12 lần, mỗi lần lại phơi hoặc sấy khô rồi chưng lại, đến khi đen sẫm, mềm, dẻo, có vị ngọt đậm và mùi thơm nhẹ.
So với Sinh Địa, Thục Địa tính ôn hơn, bổ sâu hơn, thiên về dưỡng huyết – tư âm – ích thận – sinh tinh.
Thành phần – đậm đà, âm nhu, ngọt sâu, bổ huyết, dưỡng âm, sinh tủy, sinh tinh, điều kinh
Thục Địa Hoàng (10 – 30g) – vị ngọt, tính hơi ôn – quy kinh Tâm – Can – Thận. Chứa iridoid glycosid (catalpol, rehmanniosid), đường, acid hữu cơ, vitamin A, chất nhầy… có tác dụng bổ huyết – tư âm – bổ thận – sinh tinh – sinh tủy – điều kinh.
Là chủ dược trong các chứng huyết hư – can thận âm hư – kinh nguyệt ít – di tinh – đau lưng mỏi gối – tóc bạc sớm – xương yếu răng lung lay – hoa mắt chóng mặt.
Công dụng – bổ huyết, tư âm, sinh tinh, sinh tủy, điều kinh, cường gân cốt, đen tóc, sáng mắt
Trong y học cổ truyền, Thục Địa Hoàng có công năng:
bổ huyết – tư âm – bổ thận – sinh tinh – điều kinh – chỉ huyết – nhuận táo.
Thường dùng trong các chứng:
• Huyết hư: da xanh, chóng mặt, tim hồi hộp, kinh nguyệt ít.
• Can thận âm hư: đau lưng, mỏi gối, di mộng tinh, mất ngủ.
• Huyết hư gây băng huyết, rong huyết, tiểu ra máu.
• Râu tóc bạc sớm, răng lung lay, xương yếu.
• Suy nhược sau bệnh, sản hậu huyết suy, khô miệng, táo bón.
Một số bài thuốc ứng dụng:
• Tứ vật thang: phối đương quy, bạch thược, xuyên khung – bổ huyết điều kinh.
• Lục vị địa hoàng hoàn: phối hoài sơn, sơn thù – bổ thận âm.
• Quy tỳ thang: phối hoàng kỳ, long nhãn – bổ khí huyết.
• Thập toàn đại bổ: phối nhân sâm, hoàng kỳ – đại bổ khí huyết.
• Tư âm bổ huyết thang: phối sa sâm, mạch môn – trị âm hư nhiệt.
Cách lựa chọn dược liệu và bào chế
Thục Địa Hoàng là địa hoàng sống (sinh địa) sau khi được chế biến kỹ lưỡng bằng phương pháp “cửu chưng cửu sái” – tức hấp chín rồi phơi khô lặp lại nhiều lần – để biến tính, giảm hàn khí và làm mạnh công năng bổ huyết, dưỡng âm. Loại tốt phải được làm từ sinh địa tươi, củ to, ruột đặc, màu đỏ tím sẫm. Sau chế biến, Thục Địa có màu đen bóng, mềm dẻo như cao, vị ngọt đậm, không mùi chua hay khét. Nếu củ khô giòn, xốp rỗng, mốc trắng hoặc có mùi lạ thì không thể dùng.
Khi bào chế, sinh địa được hấp cùng rượu hoặc nước gừng tùy phương thang, mỗi lần hấp phải chín đều, rồi lại phơi âm can hoặc sấy nhẹ – quá trình ấy có thể lặp lại 3, 5 hoặc 9 lần cho đến khi dược liệu đen bóng, nặng tay, vị ngọt thanh, mềm mà không nhũn. Có nơi cầu kỳ hơn còn tẩm mật hoặc rượu trong lần hấp cuối, làm tăng tác dụng bổ âm, bổ huyết mà không sinh thấp trở. Từng lát Thục Địa, tuy đen đúa, âm trầm, nhưng khi đi vào thang thuốc lại là suối ngầm âm khí nuôi dưỡng huyết mạch và gốc rễ sự sống.
Bên cạnh những gì chúng ta đã biết thì…
… Thục Địa Hoàng còn là vị thuốc gốc trong dưỡng âm – giữ cho người không khô – tạng không cạn – tâm không bấn loạn:
• Là dược liệu chủ trong các bài bổ thận âm – dưỡng huyết – sinh tinh – phòng tóc bạc, răng rụng, gối yếu.
• Có thể ngâm rượu, sắc uống, tán bột hoàn, hoặc chưng phối thêm với kỷ tử – hoài sơn – đỗ trọng.
• Trong y học hiện đại, Thục Địa giúp tăng hồng cầu, nâng cao miễn dịch, chống lão hóa, dưỡng hệ thần kinh.
Về cách bào chế ứng với công dụng:
• Dùng thục địa (chưng rượu hoặc mật): bổ huyết – sinh tinh – dưỡng âm.
• Tán bột làm hoàn: phối sa sâm, bạch thược – trị huyết hư sinh nội nhiệt.
• Ngâm rượu: phối lộc nhung, ba kích – bổ thận sinh tinh.
• Hoàn gia truyền: thường phối hoài sơn, sơn thù, trạch tả – thành Lục vị hoàn.
Gia giảm tùy thể bệnh:
• Nếu huyết hư sinh nội nhiệt: phối bạch thược, sinh địa, a giao.
• Nếu di tinh, mỏi gối, đêm hay nóng: phối hoài sơn, ngũ vị tử, tang ký sinh.
• Nếu phụ nữ sau sinh huyết suy, thiếu sữa: phối ích mẫu, đương quy, thông thảo.
• Nếu tóc bạc sớm, gầy yếu: phối kỷ tử, hà thủ ô, hắc chi ma.
Đừng quên:
Thục Địa tính ngọt – dễ gây nặng bụng, tiêu hóa kém – người tỳ vị hư nên dùng kèm bạch truật, sa nhân.
Không nên dùng trong cảm lạnh, đầy bụng, tiêu chảy, thấp nhiệt.
Dùng lâu dài giúp bồi âm, dưỡng huyết sâu – nhưng cần phối hợp để dễ tiêu hóa hơn.
Thục Địa Hoàng – củ rễ âm trầm của lòng đất, dưỡng huyết không lời, nuôi tinh không phô trương, là vị thuốc của những người cần hồi sinh từ trong sâu thẳm
Không gắt, không mạnh, không sắc sảo – nhưng Thục Địa Hoàng lại là nền đất để huyết được nuôi, tinh được sinh, thận được giữ, tóc không rụng, xương không yếu, lòng không cạn.
“Mềm như đất vừa chưng,
Đen như đêm mới xuống.
Bổ huyết – nuôi thận tạng,
Giữ người khỏi gió sương…”
