Thảo Quả – trái dày hỏa khí hong ấm vùng bụng lạnh lâu ngày

Có những bụng đau không vì nhiễm, mà vì lạnh – ẩm – trệ…
Có người ăn món gì lạ là tiêu chảy, bụng cuộn lên từng cơn, ăn xong là buồn nôn, chân tay lạnh.
Có người dùng bao nhiêu thuốc bổ mà bụng vẫn trướng, ăn vẫn không vào, miệng thì đắng mà tỳ vẫn lạnh.
Ấy là lúc hàn thấp đã tụ lại ở trung tiêu, khiến dạ dày mất khả năng thăng giáng, tiêu hóa trở nên trì trệ, tân dịch không được sinh.
Người thầy thuốc khi ấy thường chọn một vị thuốc có mùi nồng mạnh – cay nóng – khô ráo, có thể tán hàn – táo thấp – khơi thông khí uất trong bụng, đó chính là Thảo Quả – trái của cây vùng núi cao, dùng cả trong y lẫn thực, làm thơm thức ăn và ấm tỳ vị.
Giai thoại – Người đàn ông bụng lạnh lâu năm và nắm quả khô trong tay người Dao
Có người đàn ông đi rừng, từ ngày mắc lỵ không khỏi, về nhà bụng hay lạnh, tiêu chảy mỗi lần ăn đồ tanh.
Thuốc Tây uống mãi – ngưng lại tái. Thuốc bổ tỳ thì đầy trướng, miệng đắng.
Một ngày lên bản, người Dao cho uống nước nấu từ Thảo Quả, Sa nhân, Hậu phác, Bán hạ, lại cho mang về một nắm quả khô thơm hắc.
Bảy ngày, bụng ấm. Hai mươi ngày, ăn được cả cá – không đau, không trướng.
Ông nhớ mãi hương quả ấy:
“Không phải vì tôi yếu, mà vì trong bụng tôi có khí lạnh chưa chịu đi ra.”
Tính vị và công năng – cay, ấm – ôn trung – táo thấp – chỉ ẩu – trừ tích
Thảo Quả – vị cay the, tính nhiệt, quy vào tỳ – vị
Là vị thuốc có tính tán hàn – khô thấp – trừ đàm – giải uế, dùng khi:
• Bụng lạnh – tiêu chảy – đầy trướng – nôn ói do hàn thấp
• Kiết lỵ lâu ngày, phân lỏng có mùi chua thối, đờm tích ở dạ dày
• Dùng sau khi ăn đồ sống, thịt cá tanh lạnh, để giải độc – sát khuẩn
• Tán hàn trong trung tiêu, hành khí, kiện vị – đặc biệt khi phối trong bài thuốc bổ bị đầy
Cách chọn thuốc tốt và các phương pháp bào chế
Thảo Quả là quả chín phơi khô của cây Amomum tsaoko, mọc ở vùng núi cao, khí hậu lạnh, như Hà Giang, Lào Cai, Tây Bắc.
Loại tốt:
• Quả to, hình trứng dài 3–5 cm, màu nâu đen, vỏ nhăn, cứng nhưng không vụn
• Khi bẻ có mùi nồng, thơm cay, bên trong có hạt đen bóng
• Vị cay tê đầu lưỡi, nhưng ngửi lâu có cảm giác thơm thảo – sát khuẩn nhẹ
Cách dùng:
• Sao đen hoặc sao thơm rồi tán bột để dễ phối vào toa thuốc
• Phối với Hậu phác – Bán hạ – Cam thảo – Sa nhân trị lạnh bụng, tiêu chảy, nôn ói
• Có thể cho vào thuốc bổ tỳ để tránh gây trệ khí khi người bệnh tỳ vị còn yếu
Bên cạnh những gì ta đã biết…
Thảo Quả có mặt trong:
• Toa Ôn trung tán hàn: phối với Can khương – Trần bì – Cam thảo – Nhân sâm
• Toa kiện tỳ trừ thấp: Thảo Quả – Bạch truật – Phục linh – Sa nhân
• Toa trừ tích sau ẩm thực độc: Thảo Quả – Hoắc hương – Thanh bì – Bán hạ
Y học hiện đại xác nhận:
• Chứa tinh dầu (cineol, borneol), flavonoid, chất sát khuẩn tự nhiên
• Có tác dụng ức chế vi khuẩn đường ruột, tăng bài tiết mật, giảm co thắt tiêu hóa
• Giúp hồi phục tiêu hóa sau bệnh đường ruột, giảm lên men đường ruột, giải độc thức ăn sống
Đừng quên…
• Không dùng cho người âm hư hỏa vượng, táo bón, nhiệt tỳ vị – dễ gây khô háo
• Không dùng liều cao – có thể gây kích ứng ruột nhẹ, nóng bụng
• Dùng đúng phép – phối với thuốc kiện tỳ – nhuận táo để tránh gây “hỏa cạn”
Thảo Quả – quả cay thơm giữ cho vùng bụng lạnh có một than lửa nhỏ
Không lò rực,
Không cháy bùng,
Chỉ là quả khô ẩn trong gùi người miền núi
vậy mà có thể sưởi lại tỳ vị lạnh lâu năm,
giúp khí trệ được thông, thấp hàn được tán,
và làm bữa ăn không còn là gánh nặng cho cơ thể nữa…
