Sinh Địa – rễ tươi vị ngọt, thanh nhiệt lương huyết, làm mát những dòng sôi sục bên trong

Sinh Địa

Giữa bao vị thuốc đắng, cay, ôn, nhiệt… có một thứ mềm như đất ẩm, mát như sương sớm, đen sậm như màu trầm tích, nhưng lại mang trong mình dòng sinh lực lặng thầm. Đó là Sinh Địa Hoàng – vị thuốc dành cho những người nóng bên trong mà chẳng ai hay, khô trong máu, cạn trong tạng, tâm phiền mà không thể thở than.

Người xưa xem Sinh Địa là “nữ nhân trong đất” – âm nhu – tĩnh lặng – bồi đắp – dưỡng sinh. Không xông lên như dương dược, không kích hoạt như bổ khí, mà nhẹ nhàng mở từng kẽ huyết – làm mềm từng sợi mạch – tưới mát từng dòng hư âm.


Giai thoại – chuyện người học trò sốt cao mê man và bài thuốc từ củ đen đất

Có cậu học trò thức khuya học thi, nóng trong, sốt cao không hạ, miệng khô, lưỡi đỏ, tâm phiền không yên. Bao thuốc hạ nhiệt đều không thuyên giảm. Đến khi ông lang già đem một bó rễ địa hoàng còn tươi – giã nhỏ sắc uống, chỉ một đêm, cơn sốt tan, giấc ngủ trở lại, người bớt hoảng hốt.

Ông lang bảo: “Cây ấy mọc từ đất – hút lấy mạch lạnh dưới sâu – mới có thể dập tắt lửa nóng trong lòng huyết.


Nguồn gốc của vị thuốc

Sinh Địa Hoàng là rễ tươi hoặc phơi khô của cây Địa Hoàng (Rehmannia glutinosa), thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae). Cây mọc ở vùng đất ẩm mát, được trồng nhiều ở Hà Nam, Hà Bắc (Trung Quốc) và một số nơi tại Việt Nam như Hưng Yên, Lào Cai…

Dược liệu là phần rễ củ – còn tươi gọi là Sinh Địa, khi chích mật sao qua sẽ thành Thục Địa. Sinh Địa có màu đen nâu, mềm nhũn, vị ngọt đắng nhẹ, tính hàn, mát sâu từ bên trong.


Thành phần – mát dịu mà sâu lắng, thanh nhiệt – dưỡng âm – lương huyết – sinh tân – làm dịu nội nhiệt âm hư

Sinh Địa Hoàng (12 – 30g) – vị ngọt, hơi đắng, tính hàn – quy vào kinh Tâm – Can – Thận. Chứa iridoid glycosid (catalpol, rehmannin), đường, chất nhầy, amino acid… có tác dụng thanh nhiệt lương huyết – dưỡng âm – sinh tân dịch – thanh tâm – chỉ huyết.

Phù hợp với người sốt cao thương âm, miệng khô họng rát, tâm phiền mất ngủ, chảy máu cam, tiêu ra máu, lưỡi đỏ, môi khô, người gầy nóng trong, âm hư nội nhiệt.


Công dụng – thanh nhiệt, lương huyết, dưỡng âm, sinh tân, chỉ huyết, thanh tâm

Trong y học cổ truyền, Sinh Địa Hoàng có công năng:
thanh nhiệt – lương huyết – dưỡng âm – sinh tân – thanh tâm – chỉ huyết.
Thường dùng trong các chứng:
• Sốt cao thương âm, miệng khô, môi đỏ, khát nhiều.
• Chảy máu cam, tiêu ra máu, băng huyết do nhiệt.
• Âm hư nội nhiệt, lưỡi đỏ, mạch tế sác.
• Tâm phiền, mất ngủ, hồi hộp, người gầy yếu nóng âm ỉ.
• Phụ nữ sau sinh huyết nhiệt, sản dịch ít, khô khát.

Một số bài thuốc ứng dụng:
Thanh tâm liên tử ẩm: phối hoàng liên, liên nhục – trị tâm phiền, mất ngủ.
Thanh vị tán: phối hoàng liên, sinh địa – thanh nhiệt vị, trị nhiệt miệng.
Địa hoàng thang: phối hoàng cầm, hoàng bá – trị nhiệt huyết, xuất huyết.
Tứ vật thang (dưỡng huyết): phối đương quy, xuyên khung, bạch thược – trị huyết hư nhiệt.

Cách lựa chọn dược liệu và bào chế

Sinh Địa là rễ củ tươi của cây sinh địa hoàng, thường mọc nơi đất đen màu mỡ ở vùng đồng bằng hoặc đồi thấp ẩm mát. Loại tốt phải là củ to mập, nặng tay, ruột đặc, màu đỏ tím sẫm như tiết đặc, mặt ngoài nhẵn bóng, khi cắt có nước dược vàng sậm hoặc hồng tươi rịn ra, mùi ngai ngái dễ chịu. Những củ xốp, ruột nhạt màu, khô héo hoặc có mùi chua, nấm mốc đều không thể dùng làm thuốc.

Khi bào chế, Sinh Địa thường được rửa sạch, thái lát mỏng rồi phơi trong bóng râm hoặc sấy nhẹ để giữ lại độ tươi mát và sinh khí. Nếu dùng trong các chứng nhiệt thương âm, âm hư sinh nội nhiệt thì để sống, còn khi cần phối trong các thang bổ huyết hoặc thanh doanh lương huyết lâu dài thì có thể đồ sơ một lần để làm dịu tính hàn. Tuy mềm mọng, âm tính, nhưng Sinh Địa chính là dòng nước ngầm âm thầm giúp làm dịu đi những ngọn lửa đang thiêu cháy âm phần bên trong cơ thể – một giọt mát giữa sa mạc của hư nhiệt.


Bên cạnh những gì chúng ta đã biết thì…

… Sinh Địa Hoàng còn là vị thuốc bồi âm – giữ cho thân thể không khô kiệt – cho tâm trí không nóng rối, cho dòng huyết không bị đốt cháy bởi nội nhiệt:
• Y học hiện đại cho thấy Sinh Địa có khả năng hạ đường huyết, chống viêm, bảo vệ gan, tăng miễn dịch, làm dịu thần kinh.
• Là vị chủ lực trong các bài thuốc âm hư nội nhiệt, sốt kéo dài, thiếu máu, người gầy yếu nóng trong, băng huyết.

Về cách bào chế ứng với công dụng:
Sử dụng sống (sinh địa): thanh nhiệt – sinh tân.
Sao cháy tồn tính: tăng tác dụng cầm máu.
Chưng mật (thục địa): chuyển sang bổ huyết – dưỡng thận.
Nấu sắc, tán bột hoặc hãm uống đều được.

Gia giảm tùy thể bệnh:

• Nếu sốt cao thương âm: phối mạch môn, sa sâm, sinh thạch cao.
• Nếu chảy máu cam, xuất huyết: phối trắc bá, hòe hoa, bạch cập.
• Nếu tâm phiền, mất ngủ do âm hư: phối dạ giao đằng, táo nhân, viễn chí.
• Nếu phụ nữ sau sinh nhiệt huyết: phối ích mẫu, sinh địa, trạch tả, ngưu tất.

Đừng quên:

Sinh Địa tính hàn – người tỳ vị hư hàn, hay tiêu chảy, đầy bụng cần thận trọng khi dùng.
Không dùng cho người đang cảm lạnh, có đàm ẩm trong tạng.
Dùng phối hợp để giảm lạnh bụng, tăng hấp thu.


Sinh Địa Hoàng – rễ mềm của lòng đất sâu, vị thuốc mát huyết, nhuần âm, làm dịu lửa nóng trong tạng phủ như sương đêm phủ lên cỏ héo giữa mùa hè

Không cần nổi bật, không cần mạnh bạo – Sinh Địa Hoàng chỉ âm thầm tưới mát, nhẹ nhàng bồi lại lớp nước mỏng trong âm huyết, dập lửa nội nhiệt, đưa người đang rối loạn trở về với cân bằng.

“Rễ mềm đen như bóng,
Ẩm mát tựa đất lành.
Giữ âm – tan lửa nóng,
Cho huyết chảy yên lành…”

 

Sinh Địa
Viết tại hiệu thuốc Khang Chính Đường, tháng 4/2025