Phòng Kỷ Bắc – rễ thuốc cắm sâu gỡ rối những dòng khí huyết bị trói trong thấp trệ

Có những thân thể chẳng sốt chẳng đau dữ, nhưng luôn thấy nặng như đeo đá:
Chân sưng phù, bước đi khó nhọc.
Đầu óc mơ màng, thân mình trì trệ.
Tay chân nhức mỏi, gối lạnh, mồ hôi dính nhớp, tiểu tiện ít…
Ấy là lúc thấp khí đọng lại – phong tà cắm sâu vào kinh lạc – làm tắc nghẽn dòng khí huyết từ trong ra ngoài.
Lúc đó, người thầy thuốc không dùng phương thuốc sắc bén hay dược liệu cầu kỳ. Chỉ lặng lẽ chọn Phòng Kỷ Bắc – một rễ thuốc thô ráp, đắng ngắt, nhưng có thể đào sâu vào chỗ thấp tắc – mở đường cho khí huyết trở lại hành trình.
Giai thoại – Người kéo vó chân phù và túm rễ đắng của ông lão vườn thuốc
Một ông lão làng chài, bao năm kéo vó sớm tối, đến một ngày đôi chân sưng vù, da bóng như nước đầy, tiểu tiện ít, đêm ngủ nghe đầu nặng như úp nồi đồng.
Các con đưa đi chữa nhiều nơi không khỏi. Cho đến khi một người thầy thuốc già ghé qua, không đo mạch, không hỏi nhiều, chỉ nhìn dáng ngồi và bảo:
“Thấp khí nhập lý – rút lại không được, thoát ra không xong. Chỉ có thể dùng rễ đắng để khai mở.”
Ông lấy ra một nắm Phòng Kỷ Bắc đã tẩm rượu sao vàng, sắc cùng Ý dĩ, Mộc thông, Hoạt thạch.
Bảy thang trôi qua, chân bắt đầu xẹp, đầu nhẹ, người ông thở ra một tiếng dài:
“Tưởng là bệnh ở chân – không ngờ là khí bị khóa trong lòng…”
Tính vị và công năng – đắng, tính hàn, trừ phong thấp, lợi niệu, thông kinh lạc, tiêu thũng
Phòng Kỷ Bắc – vị đắng, tính hàn, quy vào tỳ – vị – bàng quang. Là vị thuốc khu phong trừ thấp – lợi thủy tiêu thũng – thư thông kinh lạc.
Chuyên dùng cho các chứng:
. Phong thấp tý thống: chân tay đau nhức, gối mỏi, nặng nề – phối Độc hoạt, Tang ký sinh, Tần giao để trừ phong thấp, thông lạc đạo.
. Phù thủng, tiểu tiện ít, mặt chân sưng: phối Ý dĩ, Trư linh, Phục linh, Hoạt thạch để lợi thủy – tiêu phù.
. Đầu nặng, người trì trệ do thấp khí ngấm sâu: dùng riêng Phòng Kỷ hoặc phối Hậu phác, Thương truật, Bán hạ để kiện tỳ – táo thấp – hành khí.
. Viêm khớp dạng thấp, thấp khớp cấp và mạn tính: phối Xuyên ô, Khương hoạt, Cam thảo để gia tăng tác dụng trừ thấp – chỉ thống.
Phòng Kỷ Bắc đi sâu vào lý, nên không dùng trong biểu tà. Nó không ồn ào, nhưng có thể giải quyết những ứ tắc trầm trọng nhất trong hệ vận động – bài tiết.
Cách chọn thuốc tốt và các phương pháp bào chế – không phải rễ nào cũng biết tìm đường trong thủy thấp
Phòng Kỷ Bắc là rễ của cây Stephania tetrandra, loại tốt có:
• Hình trụ dài, mặt ngoài nâu vàng hoặc nâu sẫm, mặt cắt mịn, có tia trắng như vân sứ, mùi hơi thơm nhẹ, vị đắng sâu.
• Khi ngâm nước mềm nhưng không bở vụn, bẻ đôi có bột mịn và hơi dẻo.
• Thường được tẩm rượu – sao vàng, giúp giảm tính hàn, tăng tác dụng hành thủy – trừ thấp – thông lạc.
• Nếu dùng lợi niệu, có thể sao với mật hoặc gừng tươi để dẫn thuốc vào thận – bàng quang.
• Khi sắc, nên nấu riêng 15–20 phút đầu để chiết trọn vị đắng và giảm tác dụng gây kích ứng.
Bên cạnh những gì ta đã biết…
Phòng Kỷ Bắc có mặt trong nhiều phương cổ và hiện đại:
• Ý dĩ phụ tử tán – trị phong thấp tý thống, lạnh chân tay, gối đau.
• Phòng kỷ dĩ nhân thang – tiêu thũng, trừ thấp, lợi niệu, dùng trong phù thũng do thấp nhiệt.
• Hoạt lạc thang – hỗ trợ phục hồi sau tai biến liệt nửa người, phong thấp bế tắc kinh lạc.
• Trà dưỡng thận tiêu phù – dùng trong hỗ trợ viêm cầu thận, phù toàn thân, nước tiểu ít.
Y học hiện đại xác nhận: chứa alkaloid, tetrandrine, có tác dụng chống viêm, ức chế miễn dịch nhẹ, giãn cơ trơn, lợi tiểu, tiêu thũng, ứng dụng rộng trong điều trị viêm khớp, viêm cầu thận, tăng huyết áp nhẹ.
Đừng quên…
. Người tỳ vị hư hàn, tiêu chảy mạn, không có thấp tích – không nên dùng.
. Không phối chung với Cam thảo sống kéo dài – dễ gây độc tính đối kháng.
. Dùng đúng Phòng Kỷ Bắc – không nhầm với Phòng Kỷ Nam (Aristolochia) vốn chứa độc tính, từng gây ngộ độc trên thế giới.
. Không dùng kéo dài liều cao – có thể ảnh hưởng thận nếu không có chỉ định rõ ràng.
Phòng Kỷ Bắc – rễ thô gỡ rối thấp tà, giúp cơ thể nhẹ lại sau những ngày trì trệ ứ đọng
Không thơm, không ngọt, không dễ uống,
Nhưng là vị thuốc biết chui vào chỗ sâu nhất của trệ tắc,
Để âm thầm gỡ dần từng dòng thấp – từng cục đau – từng khối phù…
Giúp người ta nhẹ bước trở lại –
Như sau cơn mưa dài, đất bỗng mềm, người bỗng nhẹ.
