Nhục Thung Dung – khối nhục khô gầy giúp sinh khí hồi chảy

Có những người đàn ông, đến một giai đoạn trong đời, không còn muốn làm gì, không còn thấy thiết tha. Mắt lờ đờ, lưng mỏi gối mềm, bụng lạnh, lưỡi nhạt. Họ không còn cảm xúc, cũng không còn sức – tinh khí như đã chảy đi đâu mất.
Người vợ thì âm thầm nấu cháo, cắt thuốc. Người thầy thuốc thì không chọn dược mạnh công phá, cũng chẳng dùng bổ khí đại tẩm – mà nhẹ nhàng đưa vào một vị mềm, mặn, dẻo – để tư thận – ích tinh – ôn dương mà không bốc. Ấy là Nhục Thung Dung.
Giai thoại – Người đàn ông sa mạc và gốc cây mọc trong xương rồng
Xưa có một người lữ khách sống giữa sa mạc. Mỗi ngày, ông gùi nước, chẻ củi, sống lặng lẽ giữa đất cát và nắng. Đến tuổi năm mươi, người mỏi lưng, tiểu đêm nhiều, tóc rụng, da khô, mạch yếu. Không còn gần gũi vợ đã nhiều năm.
Một ngày, ông gặp một đạo sĩ già – người chuyên hái thảo dược sa mạc. Đạo sĩ đưa cho ông một khối thịt nâu mềm, bảo:
“Thứ này mọc từ rễ loài cây sống ký sinh trong khô hạn. Nó không cần nước, chỉ cần có sự sống mà hút lấy. Nay nó sẽ truyền lại cho ông chút sinh khí còn sót.”
Vài tuần sau, người lữ khách dần tỉnh, miệng có vị ngọt, bụng ấm lại, đêm ngủ liền mạch, người vợ nắm tay ông cười mà thầm nói:
“Ông đã trở về rồi…”
Tính vị và công năng – ngọt, ấm, ôn thận tráng dương, ích tinh huyết, nhuận tràng thông tiện
Nhục Thung Dung có vị ngọt, tính ấm, quy vào thận – đại tràng. Được xem là vị thuốc ôn hòa, tráng mà không táo, bổ mà không bức, chuyên dùng để:
. Ôn thận – tráng dương – ích tinh trong các chứng dương suy: lưng đau gối mỏi, liệt dương, xuất tinh sớm, tinh lạnh, suy giảm ham muốn, tiểu đêm nhiều, tiểu són.
. Tư âm – dưỡng huyết – nhuận táo trong các chứng huyết khô, ruột khô, đại tiện khó.
. Là một trong những vị chính của bài Thung dung hoàn, Bát tiên trường thọ hoàn, Tả quy hoàn gia giảm – dành cho người lớn tuổi sinh lực suy, hoặc phụ nữ sau mãn kinh.
So với các vị tráng dương mạnh như Phụ tử, Ba kích, Dâm dương hoắc, Nhục Thung Dung mềm mại hơn, êm dịu hơn, và thích hợp dùng lâu dài hơn, đặc biệt với người cao tuổi.
Cách chọn thuốc tốt và các phương pháp bào chế – tìm trong đám gốc khô ấy một nhục khối còn dẻo mềm
Nhục Thung Dung là thân phơi khô của cây ký sinh sống ở vùng hoang mạc. Loại tốt có hình trụ, dài, hơi dẹt, đầu phình như lưỡi trai, vỏ ngoài màu nâu đen hoặc nâu đỏ, có vằn nhăn – bên trong dẻo mềm, cắt ra có chất keo như gân thịt. Mùi thơm nhẹ, vị hơi mặn.
. Có thể sắc thang, nấu cao, hoặc tẩm mật sao khô – giúp dễ bảo quản, tăng công hiệu tráng dương – nhuận táo.
. Khi dùng, nên phối với các vị như Thỏ ty tử, Câu kỷ tử, Ba kích, Kỷ tử, Đỗ trọng nếu muốn tăng công dụng bổ thận.
. Nếu dùng nhuận tràng, nên phối Hỏa ma nhân, Đương quy, Sinh địa để điều hòa âm dương, không gây tiêu lỏng.
Bên cạnh những gì ta đã biết…
Nhục Thung Dung xuất hiện trong nhiều bài thuốc quý:
• Bát tiên trường thọ hoàn – tráng dương bổ thận, tăng tuổi thọ.
• Thung dung hoàn – chữa liệt dương, lãnh cảm, tinh hư, táo bón.
• Tả quy hoàn (gia Nhục Thung Dung) – dưỡng âm, ích tinh, giúp sinh khí hồi phục sau bệnh nặng.
Y học hiện đại xác nhận: Nhục Thung Dung chứa các hợp chất phenylethanoid glycoside, iridoid, và flavonoid, giúp tăng testosterone nội sinh, chống lão hóa, cải thiện trí nhớ, hỗ trợ tiêu hóa và tăng cường miễn dịch.
Đừng quên…
. Người âm hư hỏa vượng, tiêu chảy do tỳ hư, người nhiệt táo, đang sốt cao – không nên dùng.
. Không nên dùng kèm với các thuốc thanh nhiệt tả hỏa – dễ triệt tiêu tác dụng của nhau.
. Cần phân biệt rõ với các loại “giả Thung Dung” – thân xơ xác, khô cứng, không có chất dẻo, không thơm, dễ gây tiêu lỏng và kích ứng.
Nhục Thung Dung – sinh khí của sa mạc, giúp người khô héo tìm lại ngọn lửa trong mình
Không nồng nàn như rượu,
Không dữ dội như sấm,
Nhục Thung Dung chỉ âm ấm,
Dẻo mềm như một hơi thở trở lại,
Để một người đàn ông tưởng đã héo khô
có thể mỉm cười và sống tiếp
như một cây gỗ khô… vừa kịp bật mầm.
