Ngưu Tất – rễ dài như sợi dây nối lại đôi chân mỏi

Có những ngày, ta không bị bệnh – mà vẫn chẳng muốn đứng dậy. Đôi chân không đau, nhưng thấy run. Khớp gối không sưng, mà bước đi lại chậm chạp như thiếu một sợi dây kéo.
Người thầy thuốc khi ấy không kê thuốc bổ khí, cũng không dùng thảo dược ôn dương mạnh. Ông chỉ nhẹ nhàng chọn lấy một nắm rễ cây dài, màu nâu đỏ, hơi chua nơi đầu lưỡi – gọi là Ngưu Tất, rồi đưa vào trong thang thuốc.
Chẳng mấy hôm sau, người bệnh thấy chân nhẹ hơn, gối hết ê, huyết hành thông mà giấc ngủ cũng sâu lại. Người ta hỏi vì sao, ông chỉ nói:
“Vì vị thuốc ấy… biết dẫn đường.”
Giai thoại: Người đàn ông mất khí dưới và một ấm thuốc có rễ lặng thầm
Ông cụ ấy từng trèo đồi, lội suối, đi vài cây số không mỏi. Nhưng sau lần ngã nhẹ ngoài sân, chân cứ dần yếu. Không đau dữ, không sưng đỏ – chỉ là mỏi âm ỉ, tê nhè nhẹ, ngồi xuống rồi không muốn đứng lên.
Người con trai cất công đến mời một thầy thuốc vùng sơn cước. Không châm, không xoa, chỉ đưa về một gói thuốc có thứ rễ dài ngoằn, vỏ sẫm màu. Đó là Ngưu Tất – người xưa gọi là “rễ kéo gối”, chuyên cho những đôi chân đã quên đường đứng dậy.
Ông cụ uống đều ba ngày, thấy bước đi dễ lại. Mười ngày, tay cầm gậy trở nên chắc. Một tháng, sáng nào cũng ra sân phơi nắng. Người ta nói đùa: “Gối ông đã nhớ đường về rồi.”
Tính vị và công năng – chua ngọt vừa đủ, bổ gân xương, hoạt huyết, dẫn thuốc xuống chân
Ngưu Tất có vị chua – ngọt nhẹ, tính bình, quy kinh can – thận, là vị thuốc bổ can thận, mạnh gân xương, hoạt huyết, thông kinh, tiêu ứ, dẫn thuốc xuống hạ tiêu.
. Khi lưng đau, gối mỏi, chân tê do thận hư huyết trệ, Ngưu Tất được phối Cẩu tích, Đỗ trọng, Tục đoạn, Kê huyết đằng để bổ can thận – dưỡng gân cốt.
. Trong các chứng kinh nguyệt bế, đau bụng kinh, sau sinh huyết ứ, thường phối với Đương quy, Xuyên khung, Ích mẫu để hoạt huyết – hóa ứ – điều kinh.
. Đặc biệt, Ngưu Tất hay được thêm vào các bài thuốc trị khớp chi dưới, thần kinh tọa, đau đầu gối vì khả năng dẫn thuốc xuống hạ chi – thông huyết đạo sâu.
Ngưu Tất không đẩy khí như gừng, không bổ như nhân sâm – mà là sợi chỉ đỏ lặng lẽ nối các vị thuốc khác về đúng chỗ cần.
Cách chọn thuốc tốt và các phương pháp bào chế – như tìm sợi dây mềm bền trong bó rễ mộc mạc
Ngưu Tất tốt là rễ dài, tròn, hơi cong, mặt ngoài nâu đỏ, bên trong ngà trắng, cắt ra dẻo, nhai có vị hơi chua dịu. Loại quá già sẽ cứng, ít dược tính. Không dùng loại vụn, ẩm, có mốc.
Cách dùng:
. Sắc uống phối bài bổ gân huyết, chữa tê khớp – đau gối – huyết ứ.
. Tán bột làm hoàn: uống lâu ngày trị liệt nhẹ chi dưới, đau mỏi cổ chân.
. Đắp ngoài: phối thuốc đắp trị bong gân, sưng khớp.
. Sao rượu: tăng công dụng dẫn thuốc – hoạt huyết – bổ khớp.
Thường dùng Hoài Ngưu Tất (Trung Quốc) để bổ gân xương, còn Xuyên Ngưu Tất (Việt Nam) có tác dụng hoạt huyết – tiêu ứ rõ hơn.
Bên cạnh những gì ta đã biết…
Tên gọi “Ngưu Tất” – nghĩa là “nơi cần thiết cho đầu gối”, không phải ngẫu nhiên. Từ lâu, vị thuốc này đã có mặt trong nhiều bài thuốc trị:
• Thấp khớp mạn, thoái hóa khớp, viêm khớp chi dưới.
• Bế kinh, rong huyết nhẹ, huyết ứ sau sinh.
• Đau thần kinh tọa, viêm tĩnh mạch chi dưới.
Y học hiện đại cho thấy Ngưu Tất có tác dụng chống viêm, giãn mạch, hạ huyết áp nhẹ, tăng tuần hoàn ngoại biên, bảo vệ sụn khớp và hỗ trợ giảm cholesterol.
Đừng quên…
. Không dùng cho người đang chảy máu, rong huyết, hoặc thể hư hỏa.
. Phụ nữ có thai không dùng – có thể gây động huyết.
. Dùng lâu cần phối kiện tỳ – tránh gây phân lỏng.
Ngưu Tất – sợi rễ nối lại bước đi đã lạc nhịp của gối và huyết mạch
Không thơm nồng,
Không ngọt gắt,
Ngưu Tất chỉ là rễ cỏ dài mọc nơi sườn đồi,
Nhưng có thể khiến đôi gối yếu đứng lại vững vàng,
Dẫn huyết xuống chân,
Kéo tinh thần về từng bước đi vững chãi,
Nhẹ như tiếng gió đồi,
Bền như dây rễ ôm lấy gân cốt giữa mùa đông.
