Ngũ Bội Tử – hạt thương tích sinh ra để chữa lành

Có những thương tích khiến cây đổi màu, phồng lên – đó là nơi côn trùng chích vào để sinh trưởng. Cây muối – một loài cây rừng chịu mặn – khi bị sâu ngũ bội đục vào, sẽ sinh ra một khối u sần sùi, chát, dày, như một chiếc kén – người ta gọi là Ngũ Bội Tử.
Và thật kỳ lạ: chính từ vết thương ấy, mà một vị thuốc ra đời. Người xưa thu hái, sấy khô, tán nhỏ, để dùng chữa tiêu chảy mạn, loét miệng, chảy máu lâu ngày, khí hư dai dẳng, vết thương lở không khô, hôi miệng, hôi nách… Tất cả những thứ “tràn ra ngoài”, “không chịu khép miệng” – đều được Ngũ Bội Tử dỗ lại, thu về.
Giai thoại: Đứa trẻ tiêu chảy ba tháng và chiếc kén sần khô của bà ngoại
Một đứa trẻ ở vùng biển bị tiêu chảy mạn, bụng sôi, đi nhiều lần, uống thuốc Tây không đỡ. Bà ngoại không nói gì, chỉ lấy một nắm Ngũ Bội Tử – đã sao khô – tán thành bột, trộn với bột chuối khô và búp ổi, sắc lên rồi cô lại như cao.
Mỗi ngày múc một thìa, hòa với nước ấm cho cháu uống. Bảy ngày sau, phân dần thành khuôn, bụng bớt sôi. Đứa bé ngưng khóc đêm. Bà chỉ lặng lẽ nói:
“Cái gì sinh ra từ thương tổn, thường biết cách làm lành cho người khác.”
Tính vị và công năng – chát mà không gắt, thu mà không bế, sáp trường – chỉ huyết – sinh cơ – giải độc
Ngũ Bội Tử có vị chát đậm, tính hàn, quy vào phế – đại trường – thận, là vị thuốc thu liễm – sáp trường – cầm máu – sinh cơ – giải độc.
. Khi tiêu chảy mạn tính, lỵ lâu ngày, đại tiện phân nát, có mùi chua, dùng Ngũ Bội Tử phối Bạch truật, Búp ổi, Kha tử, Cam thảo để thu liễm – kiện tỳ – sáp trường.
. Trong các chứng khí hư, mồ hôi trộm, di tinh, xuất tinh sớm, bạch đới nhiều, dùng với Liên nhục, Kim anh tử, Khiếm thực, Long cốt để thu tinh – cố thận – chỉ huyết.
. Với các vết loét lâu ngày không khép, mưng mủ – hôi miệng – viêm họng mãn, dùng bột Ngũ Bội Tử bôi ngoài, súc miệng hoặc trộn mật ong làm viên ngậm – giúp sinh cơ, liễm hư, khử độc.
. Cũng được dùng làm thuốc nhuộm – trong y phục tang lễ, như cách gọi về điều đã mất, giữ lại điều sắp trôi.
Ngũ Bội Tử là vị thuốc thu lại – gói lại – giữ lại, những thứ đang thất tán – trong khí, trong huyết, trong cả tâm thần của người hư nhược.
Cách chọn thuốc tốt và các phương pháp bào chế – như chọn chiếc kén đã trải đủ mùa mưa nắng
Ngũ Bội Tử tốt là khối sần màu nâu sẫm, hình trứng dài hoặc tròn, mặt ngoài nhăn như hạt khô, bên trong rỗng nhẹ, khi nhai có vị chát đậm. Loại không ẩm, không mốc, không vỡ là tốt.
Cách dùng:
. Tán bột uống với nước cơm hoặc nước ấm: chữa tiêu chảy, khí hư, ra mồ hôi nhiều.
. Sắc nước súc miệng – rửa ngoài: dùng cho loét miệng, hôi miệng, viêm nách.
. Chế thành cao bôi ngoài: phối với Bạch phàn, Khô phàn trị viêm da, loét mưng mủ.
. Dùng chung với thuốc bổ âm – kiện tỳ để tránh thu liễm quá mạnh gây bế trệ.
Người làm thuốc luôn dặn: Ngũ Bội Tử dùng khi có hư tổn – nhưng phải “có cửa hở” thì mới thu, không nên dùng khi bế kết không rõ – dễ làm nghẽn.
Bên cạnh những gì ta đã biết…
Trong Bản Thảo Cương Mục, Lý Thời Trân viết: “Ngũ Bội Tử sáp tinh – cầm huyết – liễm khí – chỉ tả – giải độc, công dụng đa phương.”
Y học hiện đại đã tìm thấy trong Ngũ Bội Tử các hoạt chất tannin, gallic acid, có tác dụng thu liễm niêm mạc, kháng khuẩn, kháng viêm nhẹ, hỗ trợ trị viêm miệng, trĩ, loét, viêm âm đạo, và tiêu chảy dai dẳng.
Đừng quên…
. Không dùng cho người có nhiệt tích, đại tiện táo, bế kinh, u kết chưa rõ – vì tính liễm mạnh.
. Người có tỳ vị hư yếu – dùng lâu cần phối kiện tỳ.
. Dùng ngoài da nên thử trước vì có thể gây kích ứng nhẹ.
Ngũ Bội Tử – chiếc kén khô ôm lại những điều đang rơi rụng
Không đẹp,
Không dễ uống,
Ngũ Bội Tử là nắm nhựa khô từ vết thương của cây,
Sinh ra để ôm lại mồ hôi trộm,
Thu về những giọt máu rỉ,
Giữ lại từng phần khí đang tan biến,
Cho người mỏi mòn có lại chút liềm gói – chút se khép của cơ thể.
