Ngô Thù Du – trái cay ấm nhóm lại hơi người trong đêm lạnh

Có một loài cây mọc ven suối, lá xanh đậm, hoa nhỏ không đáng chú ý, nhưng quả chín lại cay hăng đến nghẹt thở. Người ta không ăn, không nếm, mà phơi khô, sao lên, rồi đem sắc thuốc – bởi biết rằng thứ cay kia có thể nhóm lại dương khí đã sắp lụi.
Ngô Thù Du được ví như bếp lửa nhỏ đặt giữa bụng người lạnh, như một nắm lửa của Đông y dành cho chứng lạnh sâu – nôn mửa – tiêu chảy – đau bụng co rút – chân tay lạnh ngắt – đầu đau âm ỉ kèm nôn…
Giai thoại: Cô gái nôn ra nước chua và nắm thuốc cay ở cuối chợ chiều
Có một cô gái trẻ bị lạnh bụng bẩm sinh. Cứ đổi gió là nôn khan, nôn chua, không ăn được gì. Đi khắp nơi, uống bao nhiêu thuốc bổ mà không cầm nổi cơn nôn. Một thầy lang già cuối chợ chiều chỉ kê Ngô Thù Du tán nhỏ, phối Sinh khương, Nhân sâm, Đại táo, sắc lên một bát như trà gừng đặc.
Cô gái uống xong, mồ hôi ra nhẹ, bụng dịu lại, cơn nôn im dần. Sau ba hôm, ăn lại được cháo gạo tẻ. Cô nói:
“Thứ thuốc cay nghẹn cổ ấy, hoá ra lại là thứ ôm lấy ruột gan đang run rẩy nhất của tôi.”
Tính vị và công năng – cay mà không khô, ấm mà không thiêu, ôn trung – giáng nghịch – chỉ thống – tán hàn
Ngô Thù Du có vị cay, đắng, tính đại nhiệt, quy vào can – tỳ – vị – thận, là vị thuốc tán hàn – chỉ thống – giáng nghịch – ôn trung – cầm nôn – chỉ tả – chữa lạnh sâu.
. Khi nôn mửa do hàn nghịch, ợ chua, trào ngược kèm bụng lạnh, Ngô Thù Du phối Sinh khương, Nhân sâm, Đại táo – bài Ngô Thù Du thang cổ điển, giúp ôn vị – giáng nghịch – cầm nôn.
. Trong các chứng đau bụng kinh, kinh ra ít, đau âm ỉ, lạnh tử cung, dùng với Ngải Diệp, Xuyên khung, Hương phụ để ôn kinh – tán hàn – điều kinh.
. Với người tiêu chảy lâu ngày, tay chân lạnh, mạch trầm trì, Ngô Thù Du kết hợp Phụ tử, Bạch truật, Cam thảo giúp kiện tỳ – ôn trung – chỉ tả.
. Trong chứng đau đầu nửa bên kèm nôn, đau từng cơn âm ỉ, Ngô Thù Du phối Xuyên khung, Bán hạ, Câu đằng để giáng nghịch – hòa can – chỉ thống.
Ngô Thù Du là vị thuốc của người có dương khí héo úa, giúp dựng lại ngọn lửa trong tỳ vị – gan thận, dẫn khí đi xuống, giữ ấm cho cả thể xác lẫn tinh thần.
Cách chọn thuốc tốt và các phương pháp bào chế – như chọn hòn than vẫn ấm giữa tro nguội
Ngô Thù Du tốt là quả chín khô đều, màu nâu đen, thơm hắc, không mốc. Khi tán ra có mùi cay đắng mạnh, vị đầu lưỡi tê nhẹ – đó là dược tính đang sống.
Cách chế biến:
. Tẩm rượu – sao vàng: giảm độc, tăng tính ôn trung.
. Sao qua tồn tính: giữ lại tính tán hàn, trị nôn – đau bụng hàn.
. Tán bột trộn với gừng: dùng trong bài thuốc cổ Thù Du hoàn – trị đau đầu kinh niên, nôn do hàn.
. Ngâm rượu xoa bóp: chữa phong hàn thấp khớp, đau cột sống lưng.
Người thầy thuốc thường nói: Ngô Thù Du là củi khô – nhưng phải nhóm đúng lúc mới không cháy lan mà chỉ ấm.
Bên cạnh những gì ta đã biết…
Trong Thương Hàn Luận, bài Ngô Thù Du thang dùng cho người nôn mửa, tay chân lạnh, đau đầu, tiêu hóa yếu – biểu lý đều hàn.
Y học hiện đại phát hiện Ngô Thù Du có tác dụng làm ấm dạ dày, giảm tiết dịch vị, tăng nhu động ruột, chống viêm, giảm đau thần kinh, và còn có tác dụng hạ huyết áp nhẹ khi phối hợp đúng vị.
Một số lương y dùng rượu thuốc Ngô Thù Du để xoa bóp khớp lạnh, đau vai gáy, đau cột sống thể hàn thấp.
Đừng quên…
. Không dùng cho người âm hư nội nhiệt, nhiệt miệng, mồ hôi trộm, táo bón do nhiệt.
. Phải chế biến kỹ, dùng liều nhỏ – dùng sống dễ gây kích ứng niêm mạc tiêu hóa.
. Trẻ nhỏ, người huyết áp cao cần thận trọng khi dùng.
Ngô Thù Du – trái cay nhỏ nhóm lại ngọn lửa sinh khí khi thân thể đang lạnh dần
Không ngon miệng,
Không dễ uống,
Ngô Thù Du là củi khô dành cho người sắp mất lửa,
Là vị thuốc không dỗ ngọt mà ủ âm thầm,
Cho dạ dày thôi co thắt,
Cho huyết khởi mà ấm chân tay,
Cho tâm an vì ruột đã không còn nôn nữa.
