Hoàng Đằng – sợi dây nhuộm vàng những vết viêm sưng âm ỉ

Hoàng Đằng

Có một loài dây leo, chẳng ai để ý giữa rừng già. Lá nó thưa, hoa chẳng thơm, thân mảnh như người từng chịu nhiều sương gió. Vậy mà đến khi người bệnh nhiệt miệng, viêm ruột, mụn lở mưng mủ… thì người làm thuốc lại cẩn thận nhấc lên một khúc rễ vàng sẫm ấy – như thể lấy sợi chỉ vàng khâu lại những vùng cơ thể đang rạn vỡ vì viêm nóng.

Người Dao đỏ vẫn gọi Hoàng Đằng là “rễ xua giận dữ trong ruột”, bởi chỉ cần sắc một ấm thuốc rễ này, hơi nóng ẩm trong bụng sẽ dịu lại, miệng khô rát cũng mát đi, những bứt rứt trong đại tràng được vỗ về như đứa trẻ ốm vừa được đắp khăn ấm.


Tính vị và công năng – vàng mà không nóng, đắng mà hiền, dịu dàng mà vẫn diệt độc

Hoàng Đằng có vị đắng nhẹ, tính hàn, quy kinh can, vị và đại tràng.

Thanh nhiệt, táo thấp: rất hay dùng trong các chứng lỵ, tiêu chảy do thấp nhiệt, miệng hôi, tiểu vàng.
Giải độc, tiêu viêm: dùng ngoài trị mụn nhọt, rôm sảy, viêm da; dùng trong giúp làm mát gan, dịu ruột.
Trị viêm họng, loét miệng: nước sắc đặc dùng súc miệng hoặc bôi rơ miệng cho trẻ nhỏ.
Kháng khuẩn, chống viêm nhẹ nhàng: không mạnh như kháng sinh hiện đại, nhưng âm thầm làm dịu như cách tro nguội dập được ngọn lửa nhỏ.

So với Hoàng Liên hay Khổ Sâm, Hoàng Đằng dịu hơn, rất thích hợp dùng cho người cơ địa yếu, đặc biệt là trẻ nhỏ hoặc người già hay nhiệt âm ỉ.


Cách chọn thuốc tốt và các phương pháp bào chế – như chọn củ gừng cũ giữa chợ chiều

Muốn chọn được Hoàng Đằng tốt, hãy tìm những đoạn rễ già bằng ngón tay cái, vỏ sần nhưng đều màu, phần lõi vàng sậm không đen lõi, không mốc, không rỗng. Khi bẻ ngang sẽ thấy thớ rễ chắc, không tơi bở.

Người làm thuốc xưa có những cách chế biến rất riêng cho từng bệnh trạng:

Dùng sống: để nguyên sắc uống – thường dành cho các bệnh nhiệt ruột, tiêu viêm trong.
Tẩm muối sao nhẹ: giúp dẫn thuốc xuống đại tràng, dùng trong tiêu chảy, kiết lỵ kéo dài.
Tán bột: trộn với mật ong hoặc bôi ngoài vết loét miệng, vùng mụn lở – cách làm đơn giản mà hiệu quả cao.
Nấu nước rửa ngoài: với liều thấp hơn, để trị viêm âm đạo, ghẻ ngứa, hăm tã ở trẻ nhỏ.

Trong mỗi cách ấy, người làm thuốc luôn quan sát sắc da, chất tiếng và khí hậu mà điều chỉnh liều lượng – bởi Hoàng Đằng là vị thuốc “biết nghe lời người bệnh”.


Bên cạnh những gì ta đã biết…

Hoàng Đằng chính là rễ của loài dây Coscinium usitatum – một loài hiếm mọc ở núi đá, rừng rậm Tây Bắc và miền Trung. Loài cây này rất đặc biệt: khi đất càng khô, rễ lại càng vàng đậm, chất lượng lại càng tốt. Điều này khiến những người sành thuốc thường tìm Hoàng Đằng ở nơi cây mọc sát vách đá, thay vì nơi đất ẩm.

Trong cổ phương, Hoàng Đằng thường được phối cùng:
Hoàng Liên, Khổ Sâm, Huyền Sâm – tăng sức thanh nhiệt.
Mộc Hương, Cam Thảo – điều hòa vị đắng, giúp dễ hấp thu hơn.
Trần Bì, Bạch Truật – để trị tiêu chảy do thấp nhiệt lâu ngày.


Đừng quên…

• Hoàng Đằng kỵ với người tỳ vị hư hàn, bụng dễ đau lạnh, đại tiện phân lỏng.
• Dùng dài ngày mà không phối hợp các vị điều hòa tỳ khí có thể gây tiêu chảy, đau âm ỉ vùng bụng dưới.
• Không dùng cho phụ nữ có thai, người thể hàn, hoặc đang tiêu chảy do lạnh.


Hoàng Đằng… sợi rễ vàng biết lắng nghe từng vùng nhiệt trong thân thể

Không xô bồ như kháng sinh,
Không dữ dội như các vị tả hỏa,
Hoàng Đằng nhẹ nhàng, nhưng đủ sức
Lau khô những vết sưng đỏ,
Xoa dịu lòng ruột đang giận dữ.

 

Hoàng Đằng
Viết tại hiệu thuốc Khang Chính Đường, tháng 4/2025