Hoắc Hương – mùi thơm xanh mát đưa thấp nhiệt thoát ra khỏi thân thể chật chội

Có những buổi trưa mùa hè, người mỏi, đầu nhẹ choáng, bụng như có khói, miệng đắng, ăn không ngon – nhưng không sốt cao, không đau dữ.
Chỉ là nóng ở trong, thấp ở ngoài, khí huyết chậm mà dạ dày ngại tiếp thêm gì.
Người xưa không vội dùng thuốc mát mạnh.
Họ dùng Hoắc Hương – hương cỏ của đất trời, nấu thành thang thuốc hoặc sắc cùng các vị kiện tỳ, hóa thấp.
Mùi ấy thoảng lên – như có gió nhẹ thổi qua ruột gan.
Chuyện đứa trẻ đi học về sốt nhẹ, buồn nôn và nồi nước thơm của mẹ
Ngày hè, thằng bé đi học về, người mệt, miệng đắng, bụng ọc ọc.
Mẹ không đưa thuốc tây – chỉ nắm ít Hoắc Hương phơi khô, sắc cùng Trần Bì, Cam Thảo, cho uống khi còn âm ấm.
Một lát sau, mồ hôi ra nhẹ, bụng êm, mắt tươi lại.
Mẹ cười:
– “Mùi hương đó… không chỉ để ngửi, mà để giải cái nóng đang nằm dưới da con.”
Tính vị và công năng – thơm mà sâu, nhẹ mà kéo theo khí thấp thoát ra
Hoắc Hương có vị cay – thơm, tính ấm, quy vào kinh Tỳ – Vị – Phế.
• Giải biểu – hóa thấp: trị cảm mạo mùa hè, sốt kèm nôn, tiêu chảy do thấp thử
• Kiện tỳ – tiêu thực: trị đầy bụng, ăn không tiêu, miệng nhạt, lưỡi dày rêu trắng
• Làm dịu hệ tiêu hóa sau sốt, sau cảm thử, mồ hôi ra mà bụng vẫn còn đầy
• Y học hiện đại: có tinh dầu kháng khuẩn, kích thích tiêu hóa, kháng viêm nhẹ
So với Bạc Hà hay Kinh Giới – Hoắc Hương không lạnh mà ấm, không chỉ giải biểu mà còn rút thấp ra khỏi tỳ vị.
Cách chọn thuốc tốt và các phương pháp bào chế
Người xưa có câu: “Hoắc hương phải mạnh mới thơm, phải non mới quý”. Khi chọn vị thuốc này, tay nên chạm vào những ngọn lá còn mềm, màu xanh tía nhè nhẹ, thân chắc mà không già xơ. Hoắc hương tốt là khi hương đưa lên mũi thấy thơm đậm, mát sâu, mà lòng bỗng nhẹ tênh như sau một cơn mưa rào giữa hạ. Đừng chọn những bó lá úa vàng, khô giòn, hay đã mất mùi – bởi lúc ấy, linh khí trong cây đã cạn, chỉ còn lại cái vỏ của một thời tinh túy.
Ngày nay, Hoắc hương thường được phơi âm can – nghĩa là phơi nơi râm mát, tránh ánh nắng gắt, để hương giữ trọn, dược tính không hao. Khi cần dùng sống để hóa thấp, giải cảm, thường chỉ thái nhỏ, sao sơ qua cho thơm là đủ. Còn nếu dùng trong các phương thuốc kiện tỳ, an vị thì người thầy thuốc sẽ tinh tế sao Hoắc hương với cám hay đất, để giảm tính tán, tăng phần hòa trung.
Mỗi cách chế đều là một nốt nhạc nhỏ trong bản hòa tấu thảo mộc – nơi mà người thầy thuốc, như nhạc trưởng âm thầm, lặng lẽ, gảy nên giai điệu chữa lành.
Bên cạnh những gì ta đã biết thì…
… Hoắc Hương là thân lá của cây Pogostemon cablin, họ Hoa môi (Lamiaceae), thường mọc ở vùng đất ẩm, bóng râm, lá mềm, thơm nồng, mùi đặc trưng.
• Thu hái vào mùa hạ, phơi râm, sao thơm – hoặc dùng tươi tùy bài thuốc
• Phối Trần Bì, Bạch Truật, Phục Linh: trị tỳ hư, ăn không tiêu, đầy bụng
• Phối Binh Lang, Hậu Phác, Sa Nhân: trị tiêu chảy, khí trệ, trướng tức
• Phối Kim Ngân, Liên Kiều, Cát Cánh: trị cảm thử, sốt kèm miệng đắng
• Có thể ngâm rượu xoa bóp, dùng ngoài để trị đau cơ do phong thấp
Dân gian còn dùng Hoắc Hương phơi khô, để trong gối đầu, đuổi muỗi, xua khí ẩm, hoặc đun nước tắm trẻ nhỏ trong mùa hè oi bức.
Đừng quên…
• Vì có tính ấm – không dùng cho người đang bị nhiệt thực, sốt cao, táo bón
• Không dùng liều cao lâu dài – dễ gây hao khí nếu người thể hư
• Dùng tốt nhất khi có dấu hiệu thấp thử, cảm hàn mùa hè, hoặc tiêu hóa kém
• Tránh dùng với cam thảo sống trong các bài dưỡng âm – có thể làm khô quá mức
Hoắc Hương… cỏ thơm của mùa hè làm mát bụng đầy, giúp thân nhẹ như gió thoảng
Không lạnh,
Không đắng,
Chỉ là mùi hương –
Mà thổi được mây thấp khỏi lòng người đã nặng trĩu vì oi ẩm.
“Mỗi nắm cỏ thơm
Là một cơn gió
Không cần ra cửa,
Mà vẫn thổi được khí trệ đi xa…”
