Hậu Phác – vỏ cây khô đánh thức khí tỳ đang uể oải, rút hết ẩm thấp trong bụng đầy

Có những ngày bụng đầy nhưng không muốn ăn.
Có cảm giác căng trướng sau bữa nhỏ, buồn nôn nhẹ, hoặc đi tiêu nhiều lần nhưng không sảng khoái.
Người xưa hiểu, đó không hẳn vì dạ dày yếu – mà vì khí tỳ trệ, thấp khí tích lại, như nước đọng không rút.
Lúc ấy, một vị thuốc bước vào – không phải để bổ, mà để gợi khí lên, dẫn thấp ra, mở đường cho tiêu hóa trôi chảy – đó chính là Hậu Phác.
Giai thoại – bà lão ăn kém sau đợt cảm và lát vỏ khô màu nâu được nấu cùng gừng
Bà cụ sau trận cảm lạnh, người mệt, ăn không ngon, bụng đầy, đi phân nát.
Người cháu sắc cho bà nước thuốc có Hậu Phác, Trần Bì và Sinh Khương, uống ấm.
Ba ngày sau, bụng nhẹ, ăn được cháo, mặt bớt nhợt nhạt.
Bà nói:
– “Thứ vỏ cây ấy… như mở một cánh cửa bụng bị gió tạt lâu ngày chưa chịu khép.”
Tính vị và công năng – không ồn ào nhưng làm tan khí trệ, rút thấp ra khỏi tỳ vị
Hậu Phác có vị đắng – cay nhẹ, tính ôn, quy kinh Tỳ – Vị – Đại trường.
• Hành khí – tiêu tích – táo thấp: trị đầy bụng, chậm tiêu, phân sống, tiêu lỏng
• Kiện tỳ – hòa vị: hỗ trợ tiêu hóa, chống buồn nôn, giúp ăn ngon
• Trừ phong thấp nhẹ: phối hợp trong các chứng thấp trệ gây đau mình mẩy
• Y học hiện đại: chứa tinh dầu tự nhiên – có tác dụng tăng co bóp dạ dày, kháng khuẩn, kháng viêm nhẹ
Hậu Phác không tấn công – mà thuyết phục. Không mạnh tay ép – mà từ tốn rút khí trệ đi nhẹ như khói.
Cách chọn thuốc tốt và các phương pháp bào chế
Hậu Phác quý ở vỏ dày, màu nâu sẫm, thơm ngát mùi gỗ già. Khi chọn, người có kinh nghiệm thường tìm những mảnh vỏ to bản, chắc nịch, bề mặt hơi nhăn tự nhiên như làn da của cây cổ thụ đã trải bao mùa mưa nắng. Thử bẻ nhẹ, nếu bên trong chắc, mùi thơm trầm đượm tỏa ra là biết ngay – vỏ ấy đã hội đủ dược khí. Còn nếu vụn nát, mốc meo hay có mùi hôi ẩm, thì đó chỉ là thứ xác khô, không còn sức chữa lành.
Tùy mục đích sử dụng mà cách chế Hậu Phác cũng đổi khác. Thường thì được cạo bỏ lớp thô, thái mỏng, rồi sao với gừng hoặc nước gừng – để giảm tính táo, lại tăng khả năng hành khí, chỉ thống. Có khi sao với rượu hoặc giấm, tùy bài thuốc, giúp dẫn dược tính vào các phủ khác nhau. Một số bài cổ còn tẩm Hậu Phác với mật ong, vừa để dễ uống, vừa để tăng phần ôn hòa cho người tỳ vị hư nhược.
Trong tay người thầy thuốc, mỗi lát Hậu Phác như lát gỗ quý, được gọt đẽo công phu, mài giũa bằng kinh nghiệm và lòng trắc ẩn – để rồi khi vào thang thuốc, chúng không chỉ hành khí mà còn hành cả những dòng uất kết trong lòng người bệnh.
Bên cạnh những gì ta đã biết thì…
… Hậu Phác là vỏ của cây Hậu Phác (Magnolia officinalis), thường mọc ở vùng rừng núi phía Bắc, thân lớn, vỏ dày có mùi thơm đặc trưng, hơi ngọt xen đắng.
• Vỏ được thu vào mùa hè, phơi khô, sao thơm để giảm tính ẩm, hoặc tẩm gừng để ôn trung hóa thấp
• Phối Trần Bì, Phục Linh, Bạch Truật: trị tỳ hư tiêu chảy, chậm tiêu, đầy bụng
• Phối Thảo Quả, Hoắc Hương, Sinh Khương: trị thấp trệ, tỳ vị yếu sau cảm lạnh
• Phối Mộc Hương, Hương Phụ: trị khí trệ gây đau bụng, đầy tức vùng thượng vị
• Có thể dùng dưới dạng tán bột, hãm trà, hoặc sắc uống tùy theo thể bệnh
Đừng quên…
• Tính ôn, lại tiêu tích – không dùng cho người hư hỏa, âm hư hỏa vượng, táo bón
• Không dùng liều cao lâu ngày, dễ làm hao khí tân dịch
• Phụ nữ mang thai hoặc người tiêu hóa yếu nên dùng liều nhẹ, phối điều hòa
• Nếu đã ăn ngon, tiêu hóa ổn định – nên ngưng, không lạm dụng kéo dài
Hậu Phác… lớp vỏ thô cứng mà đánh thức được khí, rút đi được thấp – để bụng nhẹ lại như sau cơn gió đầu thu
Không hoa mỹ,
Không bóng bẩy,
Chỉ là vỏ cây khô
Mà làm bụng người đỡ trướng, miệng người thèm ăn trở lại.
“Vỏ cây từ rừng,
Không làm người no,
Nhưng gợi lại được cảm giác muốn ăn –
Thứ nhiều người đã lãng quên từ lâu.”
