Đảng Sâm – rễ trắng bổ khí, kiện tỳ sinh tân, nâng đỡ người yếu mỏi bằng sức bền từ đất

Có những vị thuốc được tôn xưng là “vương”, có những vị được gọi là “tiên”. Nhưng có một vị – chẳng khoe danh, chẳng cần lễ mạ vàng, lại được bao đời người nghèo mến chuộng. Ấy là Đảng Sâm – loài sâm bình dị, mọc ở vùng núi, thân mềm rễ nhỏ, không cầu kỳ trong chăm sóc, không chảnh chọe khi bào chế.
Nó là vị thuốc nuôi khí không nóng, bổ tỳ không gắt, dưỡng huyết mà không xung – như một người bạn chăm chút trong âm thầm, giúp người yếu mỏi từ từ hồi sức.
Giai thoại – chuyện bà cụ và nắm rễ sâm đất đỏ
Có bà cụ mất ngủ lâu ngày, ăn uống kém, sắc mặt xanh, giọng nói yếu. Người con tìm đến thầy thuốc trong vùng, được cho nắm rễ sâm đất màu nâu đỏ – “Đảng Sâm đấy – không cần Nhân Sâm đâu,” ông bảo.
Sắc uống một tháng, bà ăn ngon hơn, ngủ sâu hơn, tinh thần nhẹ nhàng, da dẻ hồng lại. Khi biết đó là “loại sâm rừng mà người dân thường hay dùng”, bà mỉm cười: “Thuốc chẳng cần quý hiếm – chỉ cần hợp lòng, hợp cơ, hợp người.”
Nguồn gốc của vị thuốc
Đảng Sâm là rễ phơi khô của cây Đảng sâm (Codonopsis pilosula), thuộc họ Hoa chuông (Campanulaceae). Cây mọc ở vùng núi cao phía Bắc, đặc biệt nhiều ở Hà Giang, Lào Cai, Tuyên Quang…
Rễ dài, màu vàng nhạt đến nâu xám, mềm dẻo khi khô, mùi thơm nhẹ, vị ngọt nhẹ. Dân gian còn gọi là Sâm đất – Sâm chuông – Sâm rẻ, nhưng trong y học cổ truyền, Đảng Sâm được tôn như một thứ “bình dân Nhân Sâm”, rất quý.
Thành phần – ngọt nhẹ mà dưỡng sâu, ích khí – kiện tỳ – dưỡng huyết – sinh tân – không gây táo hay vượng quá
Đảng Sâm (10 – 30g) – vị ngọt, tính bình – quy kinh Tỳ – Phế. Chứa polysaccharid, saponin, alkaloid, acid hữu cơ, chất nhầy… có tác dụng bổ khí kiện tỳ – dưỡng huyết sinh tân – ích phế chỉ khái – điều trung hòa vị.
Phù hợp với người tỳ hư ăn kém, mỏi mệt, người mới ốm dậy, khí suy, phế hư ho dai, trẻ em suy dinh dưỡng, người già yếu mỏi không dùng được Nhân Sâm.
Công dụng – bổ khí, kiện tỳ, dưỡng huyết, sinh tân, ích phế, chỉ khái
Trong y học cổ truyền, Đảng Sâm có công năng:
bổ trung ích khí – kiện tỳ – sinh tân – dưỡng huyết – ích phế – chỉ khái – điều hòa dược tính.
Thường dùng trong các chứng:
• Tỳ hư, ăn kém, bụng đầy, đại tiện lỏng, mệt mỏi.
• Khí hư, tiếng nói nhỏ, thở yếu, mặt nhợt.
• Phế khí hư: ho lâu, khò khè, thở hụt.
• Người mới ốm dậy, hậu sản, sau sốt kéo dài.
• Trẻ chậm lớn, còi cọc, người già mỏi mệt.
Một số bài thuốc ứng dụng:
• Bổ trung ích khí thang gia Đảng Sâm: thay Nhân Sâm – trị khí hư.
• Tứ quân tử thang gia Đảng Sâm: trị tỳ khí hư yếu.
• Đảng sâm bạch truật thang: dùng cho trẻ suy dinh dưỡng.
• Đảng sâm sinh mạch ẩm: phối mạch môn, ngũ vị tử – trị ho do phế khí hư.
Cách lựa chọn dược liệu và bào chế
Đảng Sâm là rễ khô của cây đảng sâm – một loài thân leo sống nơi rừng núi, ưa đất ẩm và không khí mát. Loại tốt phải chọn rễ to bằng ngón tay cái, dài đều, màu vàng nâu hoặc ngà xám, mặt ngoài có nhiều vân dọc, khi cắt ngang thấy lõi đặc, vân đồng tâm rõ, mùi thơm dịu, vị ngọt hậu kéo dài. Rễ mốc, rỗng ruột, hoặc có màu xỉn đen, mùi chua là loại kém, không nên dùng.
Khi bào chế, Đảng Sâm thường được rửa sạch, cạo bỏ rễ con, rồi phơi âm can hoặc sấy nhẹ cho khô từ trong ra ngoài. Nếu muốn tăng công dụng bổ khí, có thể sao với mật hoặc tẩm rượu, còn để dùng trong các bài thuốc kiện tỳ, ích khí sinh tân thì giữ nguyên thái lát và sắc sống. Mỗi lát Đảng Sâm mềm mại mà dẻo dai ấy, khi đi vào thang thuốc, như một người lặng lẽ gánh vác phần khí suy yếu trong tỳ vị – không vồn vã như nhân sâm, nhưng âm thầm bồi bổ cho cơ thể ngày một vững vàng hơn.
Bên cạnh những gì chúng ta đã biết thì…
… Đảng Sâm là lựa chọn tuyệt vời cho người cần bổ mà không sợ nóng, cần dưỡng mà không sợ vượng:
• Dùng được lâu dài, không gây bứt rứt, bốc hỏa như Nhân Sâm.
• Dùng thay Nhân Sâm trong hầu hết các bài thuốc – thích hợp cho người không hợp dược tính của sâm đại bổ.
• Trong y học hiện đại, có tác dụng tăng miễn dịch, cải thiện huyết áp, nâng cao thể lực, tăng hấp thu dưỡng chất.
Về cách bào chế ứng với công dụng:
• Sao vàng: giảm tính bổ mạnh, dễ tiêu hóa.
• Tẩm mật sao: tăng dưỡng huyết – sinh tân.
• Tán bột: phối thuốc bổ khí – làm hoàn dưỡng trung.
• Hãm trà hoặc nấu canh: dễ dùng, hấp thu tốt.
Gia giảm tùy thể bệnh:
• Nếu tỳ khí hư, ăn kém: phối bạch truật, cam thảo, hoàng kỳ.
• Nếu phế hư ho mạn: phối mạch môn, tang bạch bì, ngũ vị tử.
• Nếu suy nhược sau bệnh: phối hoàng kỳ, thục địa, đỗ trọng.
• Nếu thiếu máu, da xanh, mạch yếu: phối đương quy, bạch thược, a giao.
Đừng quên:
Dù tính bình, Đảng Sâm vẫn là thuốc bổ – người đang nhiễm ngoại tà, cảm sốt, bụng đầy, táo bón không nên dùng.
Dùng cho người trẻ, khỏe mạnh nếu quá liều vẫn có thể gây đầy bụng, chán ăn.
Đảng Sâm – rễ nhỏ nhưng sâu, vị thuốc của lòng kiên trì, bổ khí mà không nóng, dưỡng huyết mà chẳng xung, âm thầm như người bạn quê nhà giữa mùa mỏi mệt
Không phải sâm nào cũng hào nhoáng. Có những thứ bồi đắp không rực rỡ, nuôi dưỡng không ồn ào, chỉ nhẹ nhàng – đều đặn – mà giúp người đi qua đoạn yếu lòng.
Đảng Sâm – chính là thứ “sâm của lòng người giản dị” – vẫn đứng đó, như rễ cây giữ đất giữa mùa hanh hao.
“Sâm chẳng cần danh quý,
Chỉ bền – ủ ấm lòng.
Một gốc rễ khiêm nhường,
Nuôi người sống thong dong…”
