Dâm Dương Hoắc – chiếc lá rừng đánh thức sinh khí đang nguội tắt

Giữa rừng sâu núi thẳm, có một loài cây cỏ, lá hình trái tim, mọc dại, mùi thơm dịu.
Người xưa quan sát thấy dê rừng sau khi ăn lá ấy thì động đực mạnh, chạy nhảy nhiều, đầu mùa đông không thấy rét run – nên đặt tên là Dâm Dương Hoắc, tức “cây khiến dê mê cuồng”.
Nhưng cây chẳng có lỗi với cái tên. Thực chất, nó là vị thuốc hồi dương – bổ thận – giúp con người lấy lại nguồn sống bị vơi cạn vì bệnh, vì tuổi, vì tàn lụi.
Giai thoại – người đàn ông yếu sau trận sốt nặng và nồi thuốc lá lạ bên hiên nhà
Ông cụ ngoài sáu mươi, sau cơn sốt rét kéo dài, yếu như rơm khô, gối mỏi, lưng đau, không muốn ăn uống.
Người con lấy trong túi thuốc vị lá khô hình tim, sao rượu, sắc lên thơm nức. Đó là Dâm Dương Hoắc.
Uống vài tuần, người bớt lạnh, ăn ngon, gối chân không còn đau.
Ông bảo:
– “Lúc đầu nghe tên, cứ tưởng thuốc cho bọn thanh niên. Ai ngờ lại là cây hồi khí cho người cạn lực như tôi…”
Tính vị và công năng – vị thuốc ấm dương, làm sống lại cốt tủy và sự cứng cỏi từ bên trong
Dâm Dương Hoắc có vị cay – ngọt, tính ấm, đi vào các kinh Thận – Can – Tâm.
Không chỉ dành cho chuyện phòng the như nhiều người nghĩ, mà là vị thuốc hồi sinh cho người dương hư – lạnh từ bên trong ra đến thần sắc.
• Bổ thận – tráng dương: khi lưng đau, gối mỏi, di tinh, yếu sinh lý, lạnh tay chân
• Cường gân cốt: khi khớp lạnh đau, vận động khó khăn, thoái hóa
• Khu phong – trừ thấp: khi phong thấp gây tê, yếu chi dưới, liệt nhẹ sau tai biến
• Ích tinh huyết, an thần nhẹ: khi hồi hộp, mất ngủ do thận âm hư
• Theo nghiên cứu hiện đại: chứa flavonoid, icariin – giúp tăng testosteron tự nhiên, chống loãng xương
Cách chọn thuốc tốt và các phương pháp bào chế
Dâm Dương Hoắc mọc nhiều ở vùng núi cao, thân thảo mảnh mai nhưng lá lại dày, có răng cưa sắc, hình tim – như để giấu đi bên trong vẻ yếu mềm là một nguồn khí dương đầy nội lực. Khi chọn làm thuốc, người ta tìm những lá to bản, màu xanh sẫm chuyển nâu, có cuống dài, không giập nát, không sâu bệnh. Lá già héo, mục nát hay quá khô giòn đều không còn giữ được tinh khí.
Dược liệu sau khi thu hái thường được phơi âm can, để hương vị đượm lại mà không mất đi tinh dầu. Tùy mục đích dùng mà cách chế biến cũng khác nhau. Khi cần ôn thận, tráng dương, người thầy thuốc thường tẩm Dâm Dương Hoắc với rượu ngon, rồi sao vàng cho thơm. Có bài lại dùng tẩm với mỡ dê hoặc gừng – giúp làm dịu tính táo, dẫn khí vào sâu hơn, đặc biệt trong những thang thuốc cho người thể hư, dương suy, chân tay lạnh, lưng đau mỏi.
Chế biến vị thuốc này là một việc vừa phải biết lửa, lại vừa phải biết người. Bởi nếu quá tay, vị sẽ khô xác; mà chưa tới, lại chẳng phát huy được sức mạnh của dương khí. Cũng giống như lòng người – cần có đủ ấm, đủ yêu, thì sinh lực mới trỗi dậy được thật lâu bền.
Bên cạnh những gì ta đã biết thì…
… Dâm Dương Hoắc là lá của loài Epimedium, mọc hoang ở vùng núi đá, đất cằn, khí lạnh.
Không ưa ánh nắng mạnh, sống âm thầm – nhưng lá lại sinh dược lực mạnh mẽ, như một chiếc máy phát điện nhỏ cho tạng thận và tủy não.
Một vài cách dùng và phối hợp đặc biệt:
• Sao rượu hoặc sao mỡ dê: tăng khả năng tráng dương, dẫn vào thận
• Tẩm rượu, nướng nóng: dùng cho người già yếu, liệt dương, gối mỏi
• Phối Nhục Thung Dung – Ba Kích – Phá Cố Chỉ: trị thận hư, sinh lý yếu
• Phối Đỗ Trọng – Cốt Toái Bổ – Ngưu Tất: trị đau cột sống, đầu gối lạnh đau
• Phối Toan Táo Nhân – Viễn Chí: giúp người thận hư gây mất ngủ, mộng nhiều
Đừng quên…
• Không dùng cho người thực nhiệt, âm hư hỏa vượng, huyết áp cao chưa kiểm soát
• Dùng sai liều hoặc dùng cho người trẻ khỏe có thể gây mất ngủ, bứt rứt, khó chịu
• Không nên phối với Cam Thảo lâu dài – dễ sinh phù thũng
• Dùng đúng thời, đúng người – mới là thuốc dưỡng, không phải thuốc kích
Dâm Dương Hoắc… chiếc lá hình tim đánh thức một dòng sinh khí, khơi lại ấm áp nơi thân thể đang lạnh đi từng ngày
Không phải thuốc của dục,
Mà là thuốc của sống.
Không khiến ai thành lửa,
Chỉ giúp người thôi tắt lụi trong sương.
“Lá rừng hình trái tim,
Sống nơi âm thầm gió hú.
Nhưng ai uống vào,
Lại thấy lòng mình khởi sắc.”
