Đại Kích – vị thuốc phá trệ, mở lối cho thủy khí uất nghẹn

Không phải toa thuốc nào cũng cần đến Đại Kích.
Chỉ khi nào nước ứ không tiêu, bụng chướng như thổi, chân tay phù đầy, tiểu không ra, mạch trầm trì mà đầy, lúc ấy người thầy thuốc mới lặng lẽ lấy ra một vị tên quen mà dùng rất dè dặt: Đại Kích.
Đại Kích không nhẹ nhàng như Cam Thảo, không dẫn khí như Chỉ Xác, không làm ấm như Gừng.
Nó đến như một dòng nước mạnh, mang sức công phá của gió bấc, không phải để mơn man – mà để quét sạch.
Giai thoại – người đàn ông phù nề và vị thuốc như một trận mưa gột rửa
Ông lão ngoài sáu mươi, người nặng như đeo đá, phù cả bụng lẫn chân, tiểu tiện gián đoạn.
Ông thầy thuốc già không cho thuốc bổ, cũng không cho lợi tiểu quen dùng. Ông kê Tam Tư Châu – có Đại Kích, Nguyên Hoa, Cam Toại, thêm chút Cam Thảo điều hòa.
Ba ngày sau, người đổ mồ hôi, tiểu thông, bụng nhẹ lại.
Ông lão nói:
– “Thuốc gì mà uống vào như trời đổ trận mưa vậy… người ướt đẫm mà lại thấy nhẹ tênh.”
Tính vị và công năng – vị thuốc phá thủy mạnh, làm tan những cơn trệ ứ âm thầm
Đại Kích có vị đắng, cay, tính hàn, quy vào kinh Tỳ – Thận – Đại Trường.
Nó không dùng để dưỡng – mà để phá. Không dùng lâu – mà dùng đúng.
• Trục thủy mạnh – trị phù thũng, cổ trướng, trướng bụng, tiểu ít
• Tiêu đàm, phá kết – trị đàm ẩm ứ trệ gây ho, khối tích, hạch cứng
• Tẩy xổ, tiêu tích – dùng trong các bài thuốc tả hạ mạnh, loại bỏ độc tích, ứ trệ trong đại tràng
Đại Kích không dịu dàng, nhưng cần thiết – nhất là khi bệnh nhân không còn đáp ứng với các vị thuốc ôn hòa.
Cách chọn thuốc tốt và các phương pháp bào chế
Đại Kích là rễ của cây họ thầu dầu – loài cây sống thầm lặng nơi đất cằn nhưng lại tiềm tàng một sức mạnh phá kết, trục ứ rất sâu. Khi chọn dược liệu, người thầy thuốc thường tìm những củ rễ to, chắc nịch, màu nâu vàng hoặc nâu đỏ, mặt ngoài sần nhẹ, mặt trong đặc ruột, không rỗng tâm. Đưa lên tay ngửi, nếu thấy thơm nhẹ, vị hăng đặc trưng, là củ còn giữ được khí lực. Nếu rễ đã mục, xốp hoặc mốc, thì chẳng còn dùng được nữa.
Do Đại Kích có độc tính, nên quá trình bào chế cần thật kỹ lưỡng. Rễ được rửa sạch đất cát, thái mỏng, rồi ngâm lâu trong nước, luộc bỏ nước đầu để giảm độc. Sau đó có thể sao với rượu, giấm hoặc gừng – tùy theo mục đích dùng – để dẫn thuốc về kinh phù hợp. Có bài thuốc cổ còn yêu cầu tẩm nước cam thảo, rồi sấy khô, giúp điều hòa tính tả mạnh, tránh làm tổn thương chính khí khi sử dụng.
Chế biến Đại Kích giống như chế một con dao hai lưỡi – dùng đúng, sẽ phá vỡ được những khối tích đã lâu ngày bế tắc; nhưng nếu cẩu thả, lại dễ làm tổn thương tỳ vị, hao khí mất huyết. Vậy nên người thầy thuốc, khi dùng đến vị này, cần giữ tâm thế vừa cương, vừa nhu – để lửa có thể cháy mà không thiêu rụi rừng già.
Bên cạnh những gì ta đã biết thì…
… Đại Kích là phần rễ phơi khô của cây Euphorbia kansui, một loại thực vật mọc hoang ở Trung Quốc.
Tuy tên nghe mạnh, nhưng lại có nguồn gốc khiêm nhường – một loài cây nhỏ sống trên đất khô, rễ thon dài, thịt trắng.
• Phải chế biến kỹ càng trước khi dùng: thường được ngâm giấm, phơi khô, tẩm gừng hoặc sao nhẹ để giảm độc tính
• Thường phối hợp với Cam Toại – Nguyên Hoa – Cam Thảo trong bài thuốc “Tam Tư Châu” để trục thủy, tiêu thũng
• Chỉ dùng liều nhỏ, thường không quá 0,5 – 1g mỗi lần
• Ứng dụng hiện đại: đang nghiên cứu chiết xuất để hỗ trợ điều trị khối u dạng nang, viêm gan cổ trướng
Đừng quên…
• Đại Kích là thuốc có độc tính nhẹ, không được dùng sống, không dùng liều cao
• Phụ nữ mang thai, người khí huyết hư, tỳ vị yếu, tiêu chảy mãn – tuyệt đối không dùng
• Dùng sai liều, sai phối hợp có thể gây tiêu chảy dữ dội, mất nước, đau bụng quặn
• Luôn cần thầy thuốc kê đơn, điều chỉnh kỹ liều, phối phù hợp với thuốc điều hòa như Cam Thảo
Đại Kích… mở lối cho những dòng nước bị bế lâu ngày mà không ai dám động đến.
Không nhẹ tay,
Nhưng cần thiết khi đường nghẽn.
Không dịu ngọt,
Nhưng dọn sạch những ứ trệ chẳng ai chạm vào.
“Đại Kích – người mở cửa bằng gió,
Đánh bật ứ nghẹn đã thành.
Không phải để dỗ dành,
Mà để bắt đầu lại một lần thanh sạch.”
