Đại Hoàng – rễ vàng vị đắng, tả hạ thông trệ, quét sạch những uất tích lâu ngày

Đại Hoàng

.

Có những vị thuốc là suối – mát và dịu. Có những vị là ngọn lửa – ấm mà âm ỉ. Nhưng Đại Hoàng thì khác – nó là mũi giáo – là lưỡi gươm – là đòn quyết liệt.

Khi cơ thể đã trướng đầy, khi nhiệt kết thành mê sảng, khi huyết ứ đọng dưới da – thì Đại Hoàng không hỏi han gì nữa – nó ra tay. Mạnh mẽ. Dứt khoát. Không lùi bước.

Dù là một trong “Thập đại hàn dược” – nhưng Đại Hoàng không lạnh lùng, mà mang trong mình một sự trung trực của thuốc – trị đúng chỗ, trục đúng tà, lập lại quân bình.


Giai thoại – chuyện người lính cảm nhiệt mê man và bài thuốc cứu mạng

Thời xưa, có người lính nhiễm cảm nhiệt, sốt cao nhiều ngày, mê man, bụng trướng, không ăn uống, tiểu tiện bế tắc. Thầy thuốc đến, sờ trán, xem bụng, mạch hồng đại – phán: nhiệt kết ở lý, tà thực trong phủ, cần tả gấp.

Dùng Đại Hoàng – Mang Tiêu – Hậu Phác – Chỉ Thực, sắc uống, chưa đến một khắc, người bệnh đi tả, hạ nhiệt, dần tỉnh lại. Khi khoẻ, hỏi lại thuốc gì, nghe đến Đại Hoàng, người lính thầm gọi: “vị tướng trong rừng thuốc – ra tay cứu mạng, không cầu ơn.”


Nguồn gốc của vị thuốc

Đại Hoàng là rễ phơi khô của cây Đại hoàng (Rheum palmatum, R. tanguticum, R. officinale), thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Cây mọc nhiều ở vùng cao ẩm mát – đặc biệt ở Trung Quốc và một số nơi phía Bắc nước ta.

Rễ được thu vào mùa thu, sau ba – bốn năm tuổi. Phơi hoặc sấy nhẹ, giữ sắc vàng nâu đặc trưng. Dược liệu có vị rất đắng, tính hàn, mùi thơm nhẹ sau khi sao tẩm.


Thành phần – đắng gắt như lời cảnh tỉnh, trục ứ – tiêu tích – thanh nhiệt – phá kết cứng trong lòng phủ tạng

Đại Hoàng (3 – 12g) – vị đắng, tính hàn – quy kinh Tâm – Can – Vị – Đại trường. Chứa anthraquinon (emodin, rhein…), tanin, nhựa, nhựa dầu… có tác dụng tả hạ – thanh nhiệt – giải độc – tiêu tích – hoạt huyết – trục ứ – chỉ huyết.

Là chủ dược trong các trường hợp: táo bón nhiệt kết, sốt mê sảng, viêm nhiễm có ứ, sản hậu huyết ứ, đại tiện không thông, phù thũng – thổ tả.


Công dụng – tả hạ, tiêu tích, thanh nhiệt, giải độc, trục huyết ứ, chỉ huyết

Trong y học cổ truyền, Đại Hoàng có công năng:
tả hạ – thanh nhiệt – giải độc – tiêu tích – hoạt huyết – trục ứ – chỉ huyết.
Thường dùng trong các chứng:
• Táo bón do nhiệt tích, bụng trướng, đại tiện khó.
• Sốt cao mê man, tâm phiền, hôn mê nhẹ.
• Viêm ruột, tích trệ đường tiêu hóa.
• Huyết ứ sau sinh, bầm tím do chấn thương.
• Chảy máu cam, đi ngoài ra máu, băng huyết do huyết nhiệt.

Một số bài thuốc ứng dụng:
Tả tâm thang: phối hoàng liên, cam thảo – tả nhiệt ở tâm, thông đại trường.
Đại thừa khí thang: phối chỉ thực, hậu phác, mang tiêu – trị táo bón nhiệt kết.
Đại hoàng mẫu đơn bì thang: trị viêm ruột, viêm ruột thừa.
Huyết phủ trục ứ thang: phối xuyên khung, đào nhân – hoạt huyết, trừ ứ.
Thanh vị tán: phối sinh địa, hoàng liên – trị nhiệt độc vùng răng lợi.

Cách lựa chọn dược liệu và bào chế

Đại Hoàng là thân rễ phơi khô của cây đại hoàng – loài thảo mộc sống nơi núi cao lạnh giá, càng già càng tích tụ khí vị mạnh. Vị thuốc tốt phải lấy từ những rễ củ to, chắc, cắt ngang thấy ruột đặc màu vàng cam hoặc đỏ nâu, có vân tròn đều như vân gỗ, mùi hăng nồng đặc trưng, vị đắng gắt. Củ mềm nhũn, mốc trắng, hoặc quá xốp nhẹ đều là loại kém, không nên dùng.

Khi bào chế, Đại Hoàng có thể dùng sống để công hạ mạnh, tả hỏa, phá tích – thường thấy trong các trường hợp táo bón thực nhiệt, hôn mê, xuất huyết do ứ nhiệt. Tuy nhiên, nếu muốn tiết chế tính tả hạ, có thể sao qua với rượu, giấm hoặc cháy nhẹ để giảm khí công phá, hướng thuốc về huyết phần hoặc chỉ huyết. Mỗi lát Đại Hoàng – dù đắng như đất cháy – nhưng nếu biết dùng đúng lúc, lại như một trận mưa gột rửa độc tích trong phủ tạng, trả lại sự thông suốt cho thân thể trì trệ.


Bên cạnh những gì chúng ta đã biết thì…

… Đại Hoàng còn là vị thuốc độc đáo – mạnh mẽ – nhưng có thể điều phối tinh tế để trị nhiều chứng khác nhau:
• Dùng sống (sinh đại hoàng): tả hạ mạnh – thông đại tiện.
• Dùng sao qua: giảm tính tả, tăng tác dụng tiêu tích – chữa trướng bụng.
• Dùng sao cháy tồn tính: tăng chỉ huyết – trị đi cầu ra máu, rong huyết.
• Ngâm rượu, tán bột đều có thể phối theo bài – hiệu quả rõ.

Gia giảm tùy thể bệnh:

• Nếu táo bón do nhiệt: phối mang tiêu, chỉ thực, hậu phác.
• Nếu sốt cao, mê sảng: phối hoàng liên, chi tử, sinh địa.
• Nếu huyết ứ sau sinh, chấn thương: phối đào nhân, hồng hoa, xuyên khung.
• Nếu xuất huyết do nhiệt: sao cháy phối trắc bá, bạch cập, a giao.

Đừng quên:

Đại Hoàng tính đại hàn – người hư hàn, tỳ vị yếu, tiêu chảy mãn tính không dùng.
Không dùng cho phụ nữ có thai, người huyết hư, người suy nhược.
Dùng lâu dễ sinh nhờn thuốc, kích thích dạ dày – nên đúng liều, đúng thời điểm.


Đại Hoàng – đắng như tiếng gọi tỉnh giấc, mạnh như nhát kiếm trừ tà, sâu như bàn tay giải uất tích từ bên trong

Không phải vị thuốc nào cũng cần phải ngọt ngào. Có những lúc thân thể cần sự can đảm – tâm trí cần một tiếng gọi thẳng thắn.
Đại Hoàng – là như thế – đắng mà thật, mạnh mà đúng, quyết liệt mà vì điều lành.

“Sắc đất – vị đắng gắt,
Thuốc như nhát gươm thiêng.
Phá kết – tả tà nhiệt,
Cho lòng sạch như nghiêng…”

 

Đại Hoàng
Viết tại hiệu thuốc Khang Chính Đường, tháng 4/2025