Cốt Toái Bổ – rễ cứng lành xương, nối lại những gãy rạn của tuổi tác và va đập đời thường

bổ cốt toái

Ở những nơi núi cao, có một loài dương xỉ mọc ra từ vách đá, vỏ sẫm đen, rắn chắc như thân cây hóa thạch. Người bản địa gọi nó là Cốt Toái Bổ – nghĩa là “thứ thuốc có thể vá lại đoạn xương gãy.”

Không mùi thơm, không sắc tươi, không dễ nhai như kỷ tử, không cay nồng như khương – nhưng khi cơ thể gãy rạn, khi thận yếu gối run – thì chính nó là thứ ta cần. Một vị thuốc của hồi phục – âm thầm mà mãnh liệt.


Giai thoại – chuyện người thợ rừng ngã gãy xương và vị thuốc từ vách đá

Người thợ rừng nọ bị ngã, chân gãy, bó nẹp nhiều tháng không lành. Có ông lang già mang đến một bó thuốc đen đen, sắc lên uống, lại rang nóng rồi đắp ngoài. Hỏi ra, mới biết là Cốt Toái Bổ – lấy từ vách đá cao – mọc ra từ khe núi.

Uống đều, đắp đều, một tháng sau xương liền, đi lại nhẹ nhàng. Ông lang bảo: “Cây này sinh ra từ đá – nên giúp người vững xương hơn gỗ.” Người thợ tin lắm – từ đó, mỗi chuyến vào rừng đều mang theo vài khúc thuốc đen bên hông.


Nguồn gốc của vị thuốc

Cốt Toái Bổ là thân rễ của cây Tổ phượng (Drynaria fortunei), thuộc họ Dương xỉ (Polypodiaceae). Cây mọc hoang ở những nơi râm mát, khe đá, vách núi, có thân rễ bò dài, dày cứng, mặt ngoài nâu đen như than, bên trong vàng nhạt.

Sau khi thu hái, người ta rửa sạch, thái lát, phơi khô. Khi bẻ ra có mùi thơm nhẹ, vị đắng nhạt, tính ôn. Là vị thuốc trị thương – bổ cốt – lâu đời trong Đông y.


Thành phần – đen như đá, nhưng chữa gãy liền, đau giảm, thận mạnh, huyết thông

Cốt Toái Bổ (6 – 12g) – vị đắng, tính ôn – quy kinh Can – Thận. Chứa flavonoid, saponin, naringin, tanin, calcium, phospho… có tác dụng bổ thận – cường cốt – nối xương – tán ứ huyết – giảm đau.

Rất thích hợp với người đau lưng, mỏi gối, gãy xương, nứt xương, thận yếu, xốp xương, loãng xương, chấn thương lâu hồi phục.


Công dụng – bổ thận, mạnh gân cốt, nối xương, tiêu ứ, giảm đau

Trong y học cổ truyền, Cốt Toái Bổ có công năng:
bổ thận – mạnh gân cốt – hàn xương gãy – tán ứ huyết – chỉ thống – trị huyết hư tổn cốt.
Thường dùng trong các chứng:
• Gãy xương, nứt xương, trật khớp lâu lành.
• Đau lưng, mỏi gối, loãng xương, thận âm hư.
• Chấn thương phần mềm, tụ máu.
• Đau khớp, yếu cơ, tay chân nhũn mỏi.
• Răng lung lay do thận yếu, tai ù, mắt mờ.

Một số bài thuốc ứng dụng:
Cốt toái bổ hoàn: phối tục đoạn, đỗ trọng, ngưu tất – trị đau xương khớp.
Hoạt huyết sinh cốt thang: phối hồng hoa, đào nhân – giúp liền xương.
Bổ thận hoàn: phối ba kích, thỏ ty tử – dưỡng thận âm.
Chấn thương trị huyết ứ: phối kê huyết đằng, xích thược, xuyên khung.

Cách lựa chọn dược liệu và bào chế

Cốt Toái Bổ là thân rễ của cây dương xỉ mọc nơi khe đá, rừng ẩm – nơi đất cứng và ít người đặt chân tới. Vị thuốc tốt có thân rễ chắc nặng, hình trụ dài, mặt ngoài nâu sẫm, phủ đầy lông mịn như nhung, bên trong ruột đặc, màu nâu vàng hoặc nâu đỏ, có mùi thơm nhẹ của đất khô và vị đắng chát đặc trưng. Loại mốc, mục, nhẹ xốp hoặc bị sâu là không đạt.

Khi bào chế, Cốt Toái Bổ thường được rửa sạch, thái mỏng rồi phơi trong râm mát để giữ khí vị. Tùy mục đích, có thể sao với rượu để tăng khả năng bổ thận, cường cốt; hoặc sao giấm khi dùng trong các bài thuốc trị chấn thương, đau nhức do huyết ứ. Có nơi còn tán vụn, nấu cao để dùng lâu dài. Từ một thân rễ khô cứng, thô mộc, Cốt Toái Bổ khi qua tay người thầy thuốc lại trở thành nền móng âm thầm giúp xương liền gân vững – như một mảnh đất lặng lẽ mà nuôi cả gốc rễ sự sống.


Bên cạnh những gì chúng ta đã biết thì…

… Cốt Toái Bổ còn là vị thuốc quý trong điều trị gãy xương và thoái hóa ở người già:
• Được dùng nhiều trong xương gãy chậm liền, răng lung lay, loãng xương, kể cả sau tuổi 50.
• Trong y học hiện đại, có tác dụng tăng cường hấp thu canxi, kích thích tạo xương, làm lành mô liên kết.
• Có thể dùng sắc uống, ngâm rượu, tán bột hoặc rang chườm ngoài.

Về cách bào chế ứng với công dụng:
Tẩm rượu sao vàng: tăng hiệu quả bổ thận, liền xương.
Sao giấm: tăng tác dụng tiêu ứ – giảm đau.
Ngâm rượu: phối ngưu tất, tục đoạn – dưỡng gân cốt.
Rang đắp nóng: phối thiên niên kiện – giảm đau, tiêu sưng.

Gia giảm tùy thể bệnh:

• Nếu xương gãy – tụ huyết: phối huyết kiệt, đào nhân, xuyên khung.
• Nếu loãng xương, thận âm hư: phối lộc giác giao, thục địa, hoài sơn.
• Nếu đau cột sống, gối mỏi, đi đứng khó: phối đỗ trọng, tang ký sinh.
• Nếu răng lung lay, tai ù, mắt mờ: phối kỷ tử, mẫu lệ, bạch thược.

Đừng quên:

Cốt Toái Bổ vị đắng, tính ôn – người nội nhiệt, âm hư hỏa vượng nên dùng thận trọng.
Không dùng cho phụ nữ có thai, người đang chảy máu nhiều.
Dùng đúng liều lượng, phối thuốc hợp lý để không gây táo bón, kích thích dạ dày.


Cốt Toái Bổ – đen như đá núi, bền như cốt sống – vị thuốc của người từng đau, từng gãy, nhưng không gục

Có những người ngã xuống – không vì yếu đuối – mà vì xương gãy, cốt rạn, thận suy. Có những vị thuốc không làm họ đứng dậy ngay, nhưng từng ngày vá lại – bồi đắp – dựng dậy từng bước chậm.

Cốt Toái Bổ – là một vị thuốc như thế – giữ lại phần vững vàng cho thân thể, để người đi tiếp con đường chưa dừng.

“Thuốc đen như đá núi,
Vá gãy đoạn xương đời.
Một gốc cây trong vách,
Giữ dáng đứng không rời…”

 

bổ cốt toái
Viết tại hiệu thuốc Khang Chính Đường, tháng 4/2025