Cát Cánh – rễ trắng đắng thơm, tuyên phế lợi yết, dẫn thuốc lên trên và làm sạch tiếng nói

cát cánh

Có những vị thuốc gắn bó với người Việt từ thuở chưa biết chữ, khi cổ họng khô, tiếng nói khàn, khi ho gió buốt cổ, người ta liền nhớ đến rễ cây Cát Cánh – một loài hoa tím mềm mại, mọc giữa rừng cao, ven nương, mà rễ thì trắng ngà, vị hơi đắng, dùng lâu lại thấy ngọt nhẹ.

Cát Cánh không chỉ làm dịu cổ họng mà còn làm sạch cả những lớp đàm trệ sâu trong phổi, mở lối cho tiếng nói trở về, cho hơi thở nhẹ ra. Một vị thuốc cho người nói nhiều, hát nhiều, giảng dạy, hay đơn giản chỉ là… giữ cho tiếng nói được là chính mình.


Giai thoại – chuyện người hát xẩm và nắm rễ khô trong tay áo

Có người hát xẩm rong ruổi từ chợ này qua chợ khác. Một ngày kia, cổ đau rát, giọng khàn khàn, tiếng hát nghẹn như không thoát được. Ông lão bán thuốc gần đó lấy ra một nhánh rễ khô bào sẵn – màu trắng ánh vàng – cho ngậm.

Một lát sau, giọng bớt nghẹn, cổ dịu lại, ông hát tiếp. Dân quanh gọi đó là “rễ giữ giọng” – còn thầy thuốc gọi tên trang trọng: Cát Cánh – thuốc tuyên phế, lợi hầu, hóa đàm – rễ hoa tím mà bền gan giọng hát.


Nguồn gốc của vị thuốc

Cát Cánh là rễ khô của cây Platycodon grandiflorum, thuộc họ Hoa chuông (Campanulaceae). Cây thường mọc ở vùng núi cao, rìa rừng, đất tơi xốp – thân thảo, hoa màu tím lam nở vào mùa hạ – một loài hoa vừa có sắc lại có dược.

Thu hoạch vào mùa thu – đông, rễ rửa sạch, bỏ lõi, phơi khô hoặc sấy. Dược liệu sau chế biến có mùi thơm nhẹ, vị đắng đầu lưỡi nhưng ngọt hậu.


Thành phần – đắng đầu, ngọt sau – khai phế, lợi hầu, trừ đàm, tiêu mủ

Cát Cánh (4 – 9g) – vị đắng, cay, tính bình – quy kinh Phế. Chứa saponin triterpen, inulin, đường, chất nhầy… có tác dụng tuyên phế – lợi hầu – hóa đàm – bài nùng (trừ mủ) – tiêu viêm – kháng khuẩn – long đờm.

Đặc biệt, Cát Cánh là vị thuốc “đưa đường” cho các vị khác vào Phế kinh, rất hay được dùng trong các bài trị ho, viêm họng, đàm đặc.


Công dụng – tuyên phế lợi hầu, hóa đàm bài mủ, tiêu viêm nhẹ nhàng

Trong y học cổ truyền, Cát Cánh có công năng: tuyên phế – lợi hầu – hóa đàm – bài mủ – tiêu viêm – chỉ khái.
Thường dùng trong các chứng:
• Viêm họng, khàn tiếng, cổ đau rát, mất tiếng.
• Ho đàm đặc, ho lâu ngày, tức ngực, khó thở.
• Áp xe phổi, viêm phế quản có mủ, ho mủ.
• Viêm amidan, viêm họng có mủ, viêm xoang.

Một số bài thuốc ứng dụng:
Ngân Kiều Tán: phối kim ngân, liên kiều – trị viêm họng do phong nhiệt.
Bối mẫu cát cánh thang: phối bối mẫu, cam thảo – trị ho khan lâu ngày.
Cát cánh thanh phế thang: phối tang bạch bì, mạch môn – trị phổi khô ho đờm dẻo.
Thanh yết hoàn: phối xạ can, huyền sâm – trị đau họng, khàn tiếng.

Cách lựa chọn dược liệu và bào chế

Cát Cánh là rễ của cây cát cánh – loài thảo dược thân mảnh, nở hoa tím biếc vào đầu thu, thường mọc nơi đất cao thoáng, vùng đồi núi mát mẻ. Vị thuốc tốt là rễ to, dài đều, màu vàng trắng hoặc vàng ngà, ruột chắc, khi cắt có lõi trắng nhỏ ở giữa, mùi thơm nhẹ hơi ngai ngái, vị đắng cay. Những rễ mục, xốp rỗng, ngả màu xám đen hay có mùi chua mốc đều không dùng làm thuốc.

Khi bào chế, Cát Cánh được rửa sạch, cạo bỏ lớp vỏ thô bên ngoài, rồi thái lát và phơi khô dưới bóng râm để giữ lại dược tính. Có thể sao vàng hoặc tẩm mật nhẹ khi muốn làm dịu tính tán khai, hoặc tán bột hòa uống trong các bài thuốc trị ho, đàm đặc, ngực tức. Cát Cánh thường được dùng như “vị mở đường” trong các bài thuốc trị bệnh phổi – giúp các vị thuốc khác dễ dàng theo đó mà đi vào kinh phế, hóa đàm, giải biểu, làm dịu cổ họng và thông suốt hơi thở.


Bên cạnh những gì chúng ta đã biết thì…

… còn nhiều điều khiến rễ tím này là vị thuốc không thể thiếu trong các toa trị ho, viêm họng:
Cát Cánh là vị thuốc “hướng dẫn” – chuyên đưa các dược liệu khác vào Phế kinh, nhờ vậy mà các bài thuốc trị phổi – ho – họng thường có mặt nó như người mở lối.
• Có thể dùng dạng sắc, ngậm, nấu siro, tán bột đều được – rất linh hoạt.
• Y học hiện đại đã chứng minh Cát Cánh có tác dụng long đờm, kháng viêm đường hô hấp, tăng tiết dịch nhầy làm dịu niêm mạc.

Về cách bào chế ứng với công dụng:
Dùng sống để tuyên phế, trừ đàm, tiêu mủ.
Sao vàng để giảm tính kích ứng với người tỳ vị yếu.
Tán bột – hòa mật ong làm thuốc ngậm trị khản tiếng.
Nấu nước xông, súc miệng trong viêm họng cấp, đau họng.

Gia giảm tùy thể bệnh:

• Nếu viêm họng – mất tiếng: phối huyền sâm, xạ can, cam thảo.
• Nếu ho đàm đặc – khàn cổ: phối bối mẫu, tang bạch bì, bán hạ.
• Nếu viêm phế quản mủ: phối xuyên bối, sinh địa, hoàng liên.
• Nếu viêm xoang – nghẹt mũi: phối tân di, bạc hà, trầu không.

Đừng quên:

Cát Cánh tính bình, lành tính – nhưng dùng nhiều có thể kích thích dạ dày nhẹ.
Người tỳ vị hư nhược, đầy bụng, ợ hơi nên dùng sau bữa ăn.
Không dùng cùng với lê lô (phản vị).
Trẻ nhỏ nên dùng đúng liều, tránh quá liều gây tiêu chảy.


Cát Cánh – rễ hoa tím làm dịu cổ họng, thông phế đạo, đưa lời nói trở về

Khi cổ nghẹn đàm, khi tiếng nói như biến mất giữa thinh không, thì chỉ một lát rễ khô Cát Cánh ngậm nơi đầu lưỡi cũng có thể làm mềm cổ, thông khí – đưa giọng người trở lại – đưa hơi thở thông suốt trở về.

Một vị thuốc như người bạn giữ giọng – lặng lẽ, khiêm nhường – nhưng luôn có mặt khi ta cần.

“Rễ tím sinh từ núi,
Dẫn khí phế thông đều.
Thông giọng – tan mủ đọng,
Cho lời nhẹ như chiều…”

 

cát cánh
Viết tại hiệu thuốc Khang Chính Đường, tháng 4/2025