Can Khương – gừng khô ấm vị, ôn trung hồi dương, nhóm lại ngọn lửa nhỏ nơi tỳ vị lạnh hư

Can Khương

Có những vị thuốc gắn liền với bếp – với bữa cơm mẹ nấu – với nồi cháo giữa đêm mưa. Gừng – khi còn tươi là Sinh Khương, lúc phơi khô lại hóa Can Khươngấm hơn, sâu hơn, bền hơn, và trở thành vị thuốc của những cơn lạnh đã ngấm tận trung tiêu – những bàn tay, bàn chân đã thôi ấm từ bên trong.

Không ồn ào như quế, không bạo liệt như phụ tử – Can Khương chỉ đơn giản là âm ấm – nhưng đủ làm người đang thập tử tìm lại hơi thở.


Giai thoại – chuyện người thầy lang cứu bệnh nhân hôn mê bằng gừng khô

Có người rét run, mạch vi tế, tay chân lạnh ngắt – tưởng như không qua khỏi. Thầy thuốc già không dùng thuốc quý, chỉ sắc Can Khương – Phụ Tử – Cam Thảo, cho uống từng thìa nhỏ. Một lúc sau, sắc mặt hồng dần, tay chân ấm lại.

Người nhà ngạc nhiên: “Gừng khô mà cứu người hồi sinh được ư?” Thầy mỉm cười: “Ấy là bếp nhỏ nhóm trong bụng người. Khi hỏa chưa tắt, thì dương chưa tuyệt.”


Nguồn gốc của vị thuốc

Can Khương là gừng già phơi hoặc sấy khô, từ thân rễ cây Gừng (Zingiber officinale), thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Sau khi thu hoạch gừng già, người ta rửa sạch, thái lát hoặc để nguyên củ, phơi nắng đến khô, dùng làm dược liệu.

Can Khương khô có mùi thơm đậm, vị cay nồng hơn sinh khương, tính ấm sâu, quy vào các kinh Tỳ – Vị – Phế – Tâm – Thận.


Thành phần – cay nồng mà dịu sâu, ôn trung – cứu nghịch – chỉ tả – chỉ huyết

Can Khương (3 – 9g) – vị cay, tính rất ôn – quy kinh Tỳ – Vị – Phế – Tâm – Thận. Chứa gingerol, shogaol, tinh dầu, chất cay – có tác dụng ôn trung tán hàn – hồi dương cứu nghịch – ôn phế chỉ khái – chỉ tả – chỉ huyết.

Là vị thuốc chủ lực trong các chứng hàn nhập trung tiêu, tỳ vị hư hàn, chân tay lạnh, tiêu chảy lạnh, hư hàn xuất huyết.


Công dụng – ôn trung tán hàn, hồi dương, chỉ tả, chỉ huyết, ôn phế chỉ khái

Trong y học cổ truyền, Can Khương có công năng:
ôn trung – tán hàn – hồi dương – cứu nghịch – ôn phế – chỉ khái – chỉ tả – chỉ huyết.
Thường dùng trong các chứng:
• Tỳ vị hư hàn, bụng đau quặn, tiêu chảy lạnh.
• Tay chân lạnh, mạch vi, suy tuần hoàn, đổ mồ hôi lạnh.
• Ho do lạnh, phế khí hư, đờm trắng loãng.
• Nôn mửa do hàn, bụng sôi đau, đầy trướng.
• Xuất huyết do hư hàn: tiểu máu, đại tiện ra máu, rong huyết.

Một số bài thuốc ứng dụng:
Can khương phụ tử thang: phối phụ tử – hồi dương cứu nghịch.
Lý trung thang: phối nhân sâm, bạch truật – ôn tỳ kiện vị.
Tứ nghịch thang gia khương: trị hư hàn trầm trọng, mạch vi.
Ôn kinh thang: phối nga truật, mẫu lệ – trị rong kinh do hàn.

Cách lựa chọn dược liệu và bào chế

Can Khương là thân rễ của củ gừng già, được phơi khô hoặc sấy khô sau khi thu hái. Muốn làm thuốc tốt, phải chọn những củ gừng già lâu năm, thân mập chắc, vỏ nâu sẫm, ít xơ nhưng đậm mùi cay nồng. Loại đạt yêu cầu là khi cắt ngang thấy thớ đặc, màu vàng đậm, có dầu thơm nồng, bẻ khô giòn nhưng không vụn nát. Những củ non, nhạt mùi, khô quắt hoặc mốc trắng thì không nên dùng.

Sau khi thu hái, gừng được rửa sạch, cắt bỏ rễ con, thái lát mỏng rồi phơi hoặc sấy ở nhiệt độ vừa phải cho đến khi khô giòn. Đôi khi, Can Khương còn được sao qua để làm dịu bớt tính tân tán mà tăng hiệu năng ôn trung, hồi dương, cầm máu. Tuy là vị cay nóng, nhưng Can Khương khi dùng đúng lại như một ngọn lửa âm thầm – không bốc cháy dữ dội, mà chỉ sưởi ấm dần dần những tạng phủ lạnh giá, giúp cơ thể hồi sinh từ bên trong.


Bên cạnh những gì chúng ta đã biết thì…

… Can Khương còn là một trong những “bếp thuốc” cổ truyền, nhóm lên dương khí trong cơ thể người yếu mỏi:
• Là vị thuốc “cứu nguy” trong các thể bệnh thập tử nhất sinh, phối phụ tử – cam thảo để hồi dương.
• Có thể dùng đắp ngoài phối hành – muối – cứu lạnh bụng, đau dạ dày.
• Y học hiện đại chứng minh Can Khương có tác dụng chống viêm, làm ấm dạ dày, kích thích tiêu hóa, tăng lưu thông máu.

Về cách bào chế ứng với công dụng:
Sao cháy tồn tính: tăng tác dụng chỉ huyết.
Sao qua vàng: giảm tính kích ứng dạ dày, dễ dùng hơn.
Nấu sắc: phối nhân sâm, cam thảo – trị tỳ vị hư hàn.
Tán bột hòa mật: dùng trong hoàn bổ tỳ thận hư hàn.

Gia giảm tùy thể bệnh:

• Nếu tiêu chảy lạnh, tỳ vị hư: phối bạch truật, hoàng kỳ, cam thảo.
• Nếu tay chân lạnh, mạch vi: phối phụ tử, quế chi, nhân sâm.
• Nếu ho lạnh, đờm trắng: phối tế tân, bán hạ, mạch môn.
• Nếu xuất huyết do hư hàn: phối ngải diệp, bạch cập, a giao.

Đừng quên:

Can Khương tính rất ôn – người nhiệt trong, âm hư, miệng khô táo bón không nên dùng.
Không dùng cho trẻ nhỏ đang sốt, phụ nữ có thai cần thận trọng.
Dùng sai liều có thể gây bốc hỏa, nóng trong, chảy máu cam.


Can Khương – bếp lửa trong bụng người, nhóm lại khí dương – ấm lòng giữa gió lạnh cõi người

Có những vị thuốc không sắc màu, chẳng ngát hương – nhưng mang theo hơi ấm của một mái nhà quê cũ, một góc bếp còn đỏ than.
Can Khương – là như thế – giữ cho lòng người còn ấm, máu huyết còn thông, giấc ngủ còn yên khi đêm dài lạnh quá.

“Gừng hô cay nhẹ dịu,
Dưỡng dương thắp lửa ngầm.
Giữ tỳ – hàn chẳng nhập,
Để ấm mãi trong tâm…”

Viết tại Hiệu thuốc Khang Chính Đường – Người kể chuyện cỏ cây, Lương y Lê Minh Chính.

Can Khương
Viết tại hiệu thuốc Khang Chính Đường, tháng 4/2025