Bản Lam Căn – gốc rễ lam xanh, vị thuốc giải độc, thanh nhiệt từ sâu trong huyết mạch

Có những vị thuốc không thơm, không ngọt, không làm người ta vừa ngửi đã muốn dùng. Nhưng lại âm thầm len vào từng dòng máu, kéo theo hơi mát từ đất trời, đưa ra ngoài những thứ nhiệt độc đang ẩn náu bên trong. Bản Lam Căn là một vị như thế.
Nó là rễ cây chàm nhuộm, từng được dùng để nhuộm áo, nhưng đồng thời cũng là một dược liệu quý – làm dịu những trận ban đỏ, sởi nóng, viêm họng sưng tấy, sốt cao do huyết nhiệt. Một vị thuốc của mùa hè, của những cơn sốt, và của những người đang cần một sự mát lành tận đáy huyết quản.
Giai thoại – chuyện người thầy lang cứu cậu bé sốt phát ban bằng rễ cây nhuộm áo
Ở một vùng quê có nghề nhuộm chàm, cậu bé con thầy lang lên sởi nặng – sốt cao, người nổi đầy ban, mắt đỏ, miệng khô khốc. Người cha đã dùng đủ các loại lá tắm, thuốc hạ sốt nhưng vẫn không thuyên giảm. Trong cơn rối bời, ông nhìn sang thúng rễ cây chàm phơi dùng để nhuộm vải, như có một linh cảm.
Ông sắc rễ ấy với cam thảo, liên kiều – bón từng thìa nước. Qua một đêm, cậu bé hạ sốt, ban dần nổi hết, sau đó lặn êm. Từ đó, Bản Lam Căn không chỉ là dược liệu nhuộm áo mà còn là “rễ cứu người trong cơn nóng dữ”.
Nguồn gốc của vị thuốc
Bản Lam Căn là phần rễ khô của cây Isatis indigotica Fort., họ Cải (Brassicaceae), thường gọi là cây chàm nhuộm lam. Cây được trồng ở nhiều nơi để lấy lá nhuộm vải, còn rễ thì dùng làm thuốc – sau khi rửa sạch, thái lát, phơi khô.
Tên gọi “Bản lam căn” nghĩa là gốc rễ (căn) của cây chàm lam (bản lam) – thường dùng kết hợp với lá (Bản Lam Diệp) trong các bài thuốc giải độc nhiệt.
Thành phần – mát lạnh từ đất, thấm sâu vào huyết
Bản Lam Căn (15 – 30g) – vị đắng, tính hàn, quy vào kinh Tâm – Vị – Can. Chứa alcaloid (indigo, indirubin), polysaccharid, flavonoid, các hợp chất phenol… có tác dụng thanh nhiệt – giải độc – lương huyết – tiêu ban – chống viêm – kháng khuẩn – hạ sốt.
Vị thuốc này đặc biệt hiệu quả với các chứng viêm nhiễm cấp, ban chẩn nhiệt độc, sốt do virus, sởi, viêm họng, viêm amidan, viêm hạch, và được xem là một trong những “kháng sinh thực vật” quý trong Y học cổ truyền.
Công dụng – thanh nhiệt, giải độc, lương huyết, tiêu ban, chống viêm
Trong y học cổ truyền, Bản Lam Căn có công năng: thanh nhiệt – giải độc – lương huyết – tiêu ban – trừ viêm – mát huyết – chống sưng đau.
Thường dùng trong các chứng:
• Sốt cao, ban chẩn, sởi, thủy đậu, dị ứng nhiệt.
• Viêm họng, amidan sưng đau, miệng khô, họng đỏ.
• Viêm gan virus, viêm tuyến nước bọt, viêm hạch.
• Lở loét da do nhiệt độc, miệng lưỡi lở loét.
Một số bài thuốc ứng dụng:
• Giải độc tiêu ban thang: phối kim ngân hoa, liên kiều, thăng ma.
• Viêm họng thang: phối huyền sâm, cam thảo, bồ công anh.
• Thanh nhiệt trừ viêm gan: phối nhân trần, diệp hạ châu, xạ can.
• Chữa lở miệng, nhiệt độc: phối ngưu hoàng, sinh địa, hoàng cầm.
Cách lựa chọn dược liệu và bào chế
Bản Lam Căn là rễ phơi khô của cây bản lam – loài thảo dược thân thảo sống một hoặc hai năm, thường mọc nơi đất mát, nhiều mùn. Vị thuốc tốt là rễ to vừa phải, hình trụ, dài đều, ruột chắc đặc, màu vàng nâu hoặc nâu đỏ, mặt ngoài có nhiều vân dọc, khi cắt có mùi thơm nhẹ, vị đắng mát. Rễ xốp, mốc, ngả đen hoặc có mùi hôi là loại không nên dùng.
Sau khi thu hái vào cuối thu – khi cây tích đủ dược tính, rễ được rửa sạch, thái mỏng hoặc để nguyên rồi phơi khô trong bóng râm. Có thể sao nhẹ để tăng khả năng hóa ứ, hoặc để sống trong các bài thuốc thanh nhiệt, giải độc, trị ban sởi, viêm họng sưng đau, viêm amidan, viêm gan siêu vi… Bản Lam Căn đi vào thang thuốc như một dòng nước âm mát, không quá mạnh mẽ, nhưng lặng lẽ trấn tả những cơn viêm bốc hỏa, lắng dịu huyết nhiệt đang trào ngược từ sâu bên trong.
Bên cạnh những gì chúng ta đã biết thì…
… còn có những điều khiến rễ chàm trở nên đáng trọng:
• Bản Lam Căn có thể dùng dạng sắc, dạng hoàn, tán bột hoặc phối hợp thành trà thanh nhiệt.
• Dùng riêng hay phối với lá chàm (Bản Lam Diệp) đều có tác dụng kháng viêm – thanh nhiệt mạnh.
• Được nghiên cứu hiện đại chứng minh có tác dụng ức chế virus cúm, viêm gan, kháng khuẩn phổ rộng, nâng cao sức đề kháng.
Về cách bào chế ứng với công dụng:
• Dùng sống, sắc uống để giải độc cấp.
• Tán bột phối các vị thanh nhiệt khác tạo thành viên hoàn, trà giải nhiệt.
• Có thể nấu nước tắm khi ban đỏ chưa mọc hết, giúp mát huyết, tiêu ban.
Gia giảm tùy thể bệnh:
• Nếu ban đỏ do sởi, sốt phát ban: phối thăng ma, cát căn, kim ngân hoa.
• Nếu viêm họng, amidan: phối xạ can, huyền sâm, cam thảo.
• Nếu viêm gan virus, vàng da: phối nhân trần, diệp hạ châu, đại hoàng.
• Nếu lở miệng, mụn nhọt: phối sinh địa, hoàng bá, liên kiều.
Đừng quên:
Bản Lam Căn tính hàn, người tỳ vị hư hàn, hay lạnh bụng, tiêu chảy, nên tránh dùng hoặc phải phối ấm.
Không dùng trong trường hợp ban đã lặn, không còn nhiệt, hoặc thể hư hàn rõ.
Không nên lạm dụng – thuốc mát nhưng vẫn cần chọn đúng người – đúng chứng.
Bản Lam Căn – màu lam của đất, rễ thuốc làm mát huyết, tan ban, tiêu độc nhẹ nhàng
Trong cơn sốt ban đỏ, khi máu nổi nhiệt, khi cơ thể ửng lên những chấm lạ – có một thứ mát lành đi vào từ gốc – Bản Lam Căn, như một dòng chàm nhẹ, thấm xuống huyết, đẩy nhiệt ra ngoài, để da dịu lại, để người dễ thở hơn.
Vị thuốc của cội rễ lam, từ cây chàm nhuộm áo, giờ nhuộm mát lại dòng huyết nhiệt của người.
“Rễ chàm nhuộm áo lam,
Nay nhuộm mát huyết tràn.
Tiêu ban, tan nhiệt độc,
Cho người yên giữa hè…”
