Bạch Thược – rễ trắng của mẫu đơn, vị thuốc nhu can dưỡng huyết, giữ sự mềm mại trong cơn đau

Bạch Thược

Có những vị thuốc không ồn ào, chẳng mạnh mẽ như quế, phụ, nhưng lại thấm vào tận nơi thâm sâu nhất trong cơ thể – nơi tâm can đang co thắt, khí huyết đang trệ, nỗi đau đang u uất như mây xám. Bạch Thược là một vị như thế – không xông thẳng như gừng, chẳng mạnh liệt như nhân sâm – mà âm thầm làm dịu, điều hòa, buông lỏng…

Là một vị thuốc điển hình của sự “liễm âm – nhu can – dưỡng huyết – chỉ thống”, Bạch Thược như một người đàn bà hiền, biết lùi về để giữ sự êm ả trong nhà – không áp đảo, nhưng chẳng bao giờ vắng mặt khi lòng người cần sự tĩnh lặng.


Giai thoại – chuyện người con gái hay đau bụng kinh và rễ cây mẫu đơn trắng

Xưa có cô gái nhà nghèo, mỗi tháng đến kỳ đều đau quặn, mặt tái xanh, mồ hôi lạnh. Người mẹ không có gì ngoài rễ cây mẫu đơn trắng trồng ở bờ giếng. Bà rửa sạch, thái mỏng, sắc chung với chút gừng và đường đỏ cho con uống.

Lạ thay, lần ấy cơn đau dịu hẳn. Cô gái không còn rên rỉ, da cũng hồng lên. Về sau, rễ mẫu đơn trắng ấy được bà gọi là “củ đau êm” – một vị thuốc của sự thấu hiểu, ôn nhu, và chăm chút.


Nguồn gốc của vị thuốc

Bạch Thược là rễ đã phơi khô của cây Paeonia lactiflora, họ Mao lương – chính là mẫu đơn trắng – thường trồng ở vùng khí hậu ôn hòa như Hà Nam, Hà Bắc (Trung Quốc), một số vùng cao mát tại Việt Nam như Lâm Đồng, Sa Pa.

Loại tốt có màu trắng ngà, rắn chắc, bẻ ra có mùi thơm dịu, khi nếm hơi chua chát – là loại rễ quý dùng trong các bài thuốc dưỡng huyết, điều kinh, trị đau bụng, đau gân, tạng phủ uất kết.


Thành phần – trắng mềm mà ôn hòa, vào sâu mà không kích động

Bạch Thược (8 – 16g) – vị chua, đắng, tính hơi hàn, quy kinh Can – Tỳ. Trong rễ chứa paeoniflorin, albiflorin, tannin, axit hữu cơ… có tác dụng dưỡng huyết – nhu can – chỉ thống – liễm âm – điều kinh – kháng viêm nhẹ – an thần.

Vị thuốc này vừa bổ vừa tiết, vừa mềm vừa rắn, nên được dùng trong nhiều thể bệnh thuộc âm hư, huyết hư, can uất, tạng co thắt, kinh nguyệt bất điều.


Công dụng – dưỡng huyết, nhu can, liễm âm, chỉ thống, điều kinh

Trong y học cổ truyền, Bạch Thược có công năng: dưỡng huyết – nhu can – liễm âm – chỉ thống – điều kinh – an thần.
Thường dùng trong các chứng:
• Đau bụng kinh, kinh nguyệt không đều, khí huyết ứ trệ.
• Đau mỏi cơ gân, co rút gân xương, chuột rút, tê bì chân tay.
• Hồi hộp, lo âu nhẹ, giấc ngủ chập chờn do huyết hư.
• Tiết mồ hôi trộm, ra mồ hôi nhiều do âm hư.

Một số bài thuốc ứng dụng:
Tiêu Dao Tán: phối sài hồ, đương quy – điều kinh, sơ can, dưỡng huyết.
Tứ Vật Thang gia Bạch Thược: dưỡng huyết, điều hòa kinh nguyệt, chỉ thống.
Đương Quy Thược Dược Thang: trị đau bụng kinh, kinh huyết hư hàn, khí trệ.
Bạch Thược Thang: phối cam thảo – điều trị co thắt cơ trơn, gân cốt đau mỏi, ra mồ hôi nhiều.

Cách lựa chọn dược liệu và bào chế

Bạch Thược là phần rễ đã chế biến của cây thược dược trắng – loài hoa không chỉ làm đẹp vườn mà còn âm thầm dưỡng huyết trong lòng đất. Loại tốt phải là rễ mập, dài, thớ chắc, ruột đặc màu trắng ngà đến vàng nhạt, khi bẻ thấy mặt cắt mịn, có bột, vị chua nhẹ hậu ngọt. Những lát mốc đen, ruột rỗng, vụn nát, hoặc có mùi hôi lạ đều không nên dùng làm thuốc.

Sau khi thu hoạch, rễ được rửa sạch đất, cạo bỏ vỏ ngoài, rồi đồ chín, thái lát và phơi hoặc sấy nhẹ. Khi dùng, có thể sao với rượu để tăng công năng dưỡng can, chỉ thống; hoặc tẩm giấm nếu cần dẫn về can kinh, giải uất. Trong những thang thuốc bổ huyết, điều kinh, trừ đau bụng do khí huyết bất hòa, Bạch Thược thường cùng Đương Quy làm nên cặp đôi nhuần nhuyễn – một bên mạnh mẽ, một bên dịu dàng, nâng đỡ âm huyết một cách hài hòa. Mỗi lát thuốc trắng dịu như cánh hoa rơi, lặng lẽ tưới mát những nơi khí huyết đang rối bời trong cơ thể.


Bên cạnh những gì chúng ta đã biết thì…

… vẫn còn những điều đáng quý từ cội rễ trắng này:
• Bạch Thược kết hợp với Cam Thảo sẽ sinh ra tác dụng điều hòa co cơ, giảm đau kiểu chuột rút, đau bụng, đau gân xương rất rõ rệt – gọi là “Cam Thược hòa doanh”.
• Khi phối với Phục Linh, Viễn Chí, có thể giúp an thần, dịu tâm can, giảm lo âu, hay quên, hồi hộp ở người huyết hư.
• Bạch Thược còn liễm âm, nên dùng tốt trong các chứng hư hàn tiết mồ hôi trộm, miệng khô, người nóng nhẹ ban đêm.

Về cách bào chế ứng với công dụng:
• Dùng sống để dưỡng huyết – nhu can – điều kinh – chỉ thống.
• Tẩm rượu sao nhẹ để giảm chua – giảm tính hàn – thích hợp cho người tỳ vị yếu.
• Phối làm hoàn nhỏ dùng lâu ngày giúp bồi bổ cơ thể, an thần, cân bằng khí huyết.

Gia giảm tùy thể bệnh:

• Nếu đau bụng kinh, huyết ứ: phối đương quy, xuyên khung, ngải diệp.
• Nếu co rút gân, chuột rút: phối cam thảo, bạch truật, phục linh.
• Nếu hồi hộp, mất ngủ do huyết hư: phối viễn chí, táo nhân, long nhãn.
• Nếu ra mồ hôi trộm: phối mẫu lệ, hoàng kỳ, tang diệp.

Đừng quên:

Bạch Thược tính hơi hàn, người tỳ vị hư hàn, đầy bụng, đi ngoài lỏng nên thận trọng.
Không dùng liều cao cho người đang cảm mạo, hàn phong chưa giải.
Dùng đúng, sẽ thấy tâm dịu, huyết hòa, đau lắng. Dùng sai, có thể làm lạnh bụng, khó tiêu.


Bạch Thược – rễ mềm mà chữa đau sâu, vị thuốc của người hiểu lắng nghe cơ thể

Không phải nỗi đau nào cũng cần thuốc mạnh. Có những cơn đau – của cơ thể, của tâm can – chỉ cần một vị thuốc mềm mại như Bạch Thược là đủ. Vị thuốc này không gắt, không mạnh – chỉ là lặng lẽ đưa huyết về, làm mềm gân, làm dịu lòng, giữ cho người một sự êm ái giữa những rối ren.

“Rễ trắng mềm như gió,
Mà thấm tận đau sâu.
Cho người qua u uất,
Một chiều lặng huyết hồng…”

 

Bạch Thược
Viết tại hiệu thuốc Khang Chính Đường, tháng 4/2025