Bạch quả – hạt vàng của gió, dược liệu của trí nhớ và hơi thở.

Bạch Quả

Có loài cây sống qua cả triệu năm, từng chứng kiến khủng long diệt vong, từng đứng giữa mùa bom lửa mà vẫn trổ lá xanh. Ấy là Bạch quả, hay còn gọi là cây ngân hạnh – loài cổ thụ xứ lạnh, được mệnh danh là “hóa thạch sống” của thế giới thực vật.

Khi mùa thu đến, lá cây ngân hạnh chuyển vàng như gấm, rụng xuống thành thảm mềm. Trái chín vàng, lớp vỏ ngoài hôi nhưng bên trong là hạt – như ngọc như châu – được người đời giữ lại làm thuốc. Và rồi, trong kho tàng y học cổ truyền, Bạch quả không chỉ là thức ăn, mà còn là phương thuốc quý: giúp phế khí yên, giúp thận giữ, giúp não minh mẫn, trí không còn mờ.


Giai thoại – hạt thông tuệ nơi đất Phật

Tương truyền ở chùa cổ vùng Thiểm Tây, có vị lão tăng trăm tuổi vẫn điềm tĩnh tụng kinh, trí nhớ sáng tỏ, tinh thần quắc thước. Khi được hỏi bí quyết, ông chỉ mỉm cười và chỉ lên cây Bạch quả trong sân: “Tâm ta yên nhờ hương kinh, khí ta bền nhờ hạt này.”

Từ đó, Bạch quả được các đạo viện, thiền am trồng như một loài cây linh khí – vừa làm cảnh, vừa làm thuốc, vừa giữ lại sự trầm tĩnh cho người tu hành, vừa trợ giúp cho người tục gia giữ được trí tuệ trong thế gian đảo điên.


Nguồn gốc của vị thuốc

Bạch quả là nhân hạt chín của cây Ginkgo biloba, họ Ngân hạnh – nguồn gốc từ Trung Quốc, ngày nay được trồng nhiều ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam (vùng cao lạnh).

Hạt hình trứng, màu trắng ngà, khi chín có mùi khó chịu do lớp vỏ ngoài, nhưng bên trong là nhân cứng, thơm nhẹ. Khi sao chín hoặc nấu chín, hạt bở mềm, béo và ngọt thanh.


Thành phần – hạt cổ xưa với trí nhớ hiện đại

Bạch quả (4 – 8g) – vị ngọt, đắng, sáp; tính bình; quy vào kinh Phế, Thận. Nhân chứa nhiều flavonoid, ginkgolide, bilobalide, các axit hữu cơ, tinh bột… có tác dụng dưỡng phế – định suyễn – cố tinh – ích não – tăng tuần hoàn não.

Dù là hạt nhỏ bé, nhưng Bạch quả góp phần lớn trong những phương thuốc giúp an thần, trị hen, làm chậm lão hóa và cải thiện trí nhớ.


Công dụng – giữ hơi thở yên, nối dòng nhớ sáng

Trong y học cổ truyền, Bạch quả có công năng: liễm phế – định suyễn – chỉ đới – cố tinh – ích khí – an thần.

Thường dùng trong các chứng:

– Hen suyễn, ho lâu ngày, đàm nhiều, khó thở.
– Tiểu tiện nhiều, đái dầm, di tinh, hoạt tinh.
– Sa đới, khí hư trắng đục ở phụ nữ.
– Suy giảm trí nhớ, kém tập trung, tuần hoàn máu kém.


Một số bài thuốc tiêu biểu:

Toa Chỉ Khái: Bạch Quả phối với Tang Bạch Bì, Cát Cánh, Tử Uyển để trị ho suyễn, đàm nhiều, khó thở.
Bạch Quả Thang: dùng riêng hoặc phối với Sơn Dược, Liên Tử trị đái dầm, di tinh, tiểu tiện không tự chủ.
Viễn Chí Hoàn gia Bạch Quả: hỗ trợ cải thiện trí nhớ, tăng tuần hoàn não, giảm sa sút trí tuệ ở người cao tuổi.

Cách lựa chọn dược liệu và bào chế

Bạch Quả là phần nhân bên trong hạt chín của cây ngân hạnh – loài cây cổ sống lâu năm, lá vàng rực vào thu, hạt cũng chín vào thời điểm đẹp nhất trong năm. Vị thuốc tốt là hạt già, vỏ ngoài màu trắng ngà đến vàng nhạt, cứng chắc, bên trong nhân đầy, màu vàng kem, mịn, thơm nhẹ. Nhân hạt lép, bị sâu mọt, mốc đen hoặc có mùi chua lạ đều không được dùng.

Sau khi thu hái, hạt được loại bỏ lớp vỏ thịt bên ngoài, rửa sạch, phơi khô. Khi dùng thuốc, thường tách lấy nhân, bỏ vỏ cứng và mầm xanh bên trong – vì mầm là phần chứa độc tính mạnh. Có thể sao chín, sao vàng hoặc nấu chín kỹ để giảm độc, tăng độ an toàn khi sử dụng. Trong các bài thuốc trị ho suyễn do hư hàn, tiểu dầm ở trẻ nhỏ, hoặc khí suy kém kèm đàm, Bạch Quả thường được dùng với liều thấp, phối hợp chặt chẽ để phát huy hiệu quả mà không gây hại. Hạt thuốc ấy – nhỏ bé nhưng kiên định – như một ngọn đèn giữ lại hơi ấm cho phế khí, ngăn đàm trệ và làm dịu những cơn ho kéo dài theo mùa.

Bên cạnh những gì ta đã biết…

… vẫn còn những điều khiến ta thêm trân quý vị thuốc này:

Bạch Quả có khả năng chống oxy hóa mạnh, giúp làm chậm tiến trình lão hóa thần kinh, cải thiện chức năng nhận thức – một công dụng rất hiếm thấy trong các dược liệu cổ truyền.
– Ở Nhật Bản và Hàn Quốc, Bạch Quả được dùng trong các món ăn truyền thống mùa thu như súp, cháo, chè – vừa ngon miệng, vừa dưỡng não, phòng sa sút trí tuệ.
– Tuy nhiên, do có độc tính tự nhiên, việc bào chế đúng cách là điều bắt buộc khi dùng Bạch Quả làm thuốc.


Về cách bào chế ứng với công dụng:

Phải sao chín hoặc nấu kỹ trước khi dùng để khử độc (tuyệt đối không ăn sống vì có thể gây ngộ độc).
– Có thể tán bột mịn, phối trong các hoàn dược hoặc chè thuốc, dùng đều đặn để hỗ trợ điều trị và dưỡng thân.


Gia giảm tùy thể bệnh:

Ho đàm nhiều, hen suyễn: phối Tang Bạch Bì, Tử Uyển, Bán Hạ.
Di tinh, đái dầm: phối Sơn Thù, Kim Anh Tử, Liên Nhục.
Kém trí nhớ, chóng mặt, ù tai: phối Viễn Chí, Thục Địa, Đương Quy.

Đừng quên:

Dù là vị thuốc quý, Bạch quả có độc nhẹ khi dùng sống hoặc quá liều – tuyệt đối không ăn quá 10 hạt/ngày. Không dùng cho trẻ nhỏ dưới 5 tuổi. Người thể nhiệt, táo bón, ho khan không đàm nên thận trọng.
Dùng đúng – sẽ bổ não, ích khí, cố tinh, định suyễn. Dùng sai – dễ gây ngộ độc, rối loạn tiêu hóa, dị ứng.


Bạch quả – hạt vàng của sự bền bỉ và lặng thầm

Trong khi những loài cây khác vội nở chóng tàn, Bạch quả cứ thong thả trút lá mỗi thu, sống trăm năm, ngàn năm mà vẫn lặng lẽ. Hạt ấy – nhỏ, thơm, hơi đắng – lại mang theo sức mạnh của một thời gian cổ xưa, của một sự sống bền bỉ, và của trí nhớ bền lâu.

“Gió thổi ngân hạnh rơi,
Một hạt vàng im lặng.
Dẫu thời gian lướt vội,
Vẫn còn đây – trí sáng.”

 

Bạch Quả
Viết tại hiệu thuốc Khang Chính Đường, tháng 4/2025