Bạch Chỉ – hương trắng dẫn đường, vị thuốc khu phong và thông khiếu

Có những vị thuốc sinh ra không phải để bổ khí đại bổ, mà là để mở lối – khai thông những nơi bị bế tắc trong cơ thể. Bạch Chỉ là một vị như thế – trắng tinh như sương mỏng đầu ngày, thơm nhẹ như khói trầm, âm thầm mà hữu dụng.
Người xưa hay ví Bạch Chỉ như người dẫn đường trong bài thuốc – không nổi bật, nhưng thiếu đi thì khí chẳng thông, phong chẳng tán, huyết chẳng hành. Đó là thứ “hương trắng” của kho tàng dược liệu cổ truyền, dịu dàng mà bền bỉ.
Giai thoại – chuyện vị thuốc dẫn kinh
Có lần danh y Hoa Đà được mời chữa cho một vị công tử quý tộc, thường xuyên nhức đầu, mắt đỏ, mũi tắc, tinh thần u uất. Các thầy thuốc dùng nhiều vị bổ khí, thanh nhiệt mà không khỏi. Hoa Đà chỉ cười, kê một phương đơn giản với Bạch Chỉ làm chủ vị. Vài thang thuốc uống vào, công tử toát mồ hôi, mũi thông, đầu nhẹ hẳn.
Ông nói: “Đôi khi không phải vì thiếu thuốc mạnh, mà là thiếu người dẫn đúng đường. Bạch Chỉ là vậy – đưa thuốc vào sâu, thông từ biểu đến lý.”
Nguồn gốc của vị thuốc
Bạch Chỉ là rễ phơi khô của cây Angelica dahurica, họ Hoa tán – mọc hoang hoặc được trồng nhiều ở các vùng núi phía Bắc, nhất là Lào Cai, Lạng Sơn, Hà Giang.
Rễ hình trụ, trắng ngà hoặc hơi vàng, có rãnh dọc, vị thơm cay nhẹ, khi sắc lên cho nước trắng đục, hương bốc nhẹ nhưng sâu.
Thành phần – tinh khí của rễ trắng dẫn thông khiếu
Bạch Chỉ (4 – 12g) – vị cay, tính ấm, quy vào kinh Phế, Vị, Đại trường. Chứa các hợp chất như coumarin (imperatorin, oxypeucedanin…), tinh dầu thơm, axit hữu cơ… có tác dụng khu phong – tán hàn – chỉ thống – tiêu độc – bài nùng – dẫn thuốc lên đầu mặt.
Dù không nổi tiếng như nhân sâm hay đương quy, Bạch Chỉ lại là “người mở lối” không thể thiếu trong các bài thuốc cảm phong hàn, đau đầu, viêm xoang, mụn nhọt sưng đau.
Công dụng – khu phong, giảm đau, tiêu độc, thông khiếu
Trong y học cổ truyền, Bạch Chỉ có công năng: khu phong trừ thấp – giải biểu – chỉ thống – bài nùng – tiêu viêm.
Thường dùng trong các chứng:
– Đau đầu do phong hàn, cảm mạo, nghẹt mũi, viêm xoang.
– Đau răng, đau mặt, đau trán.
– Mụn nhọt, mưng mủ, đinh độc, trứng cá.
– Phụ nữ bế kinh, đau bụng kinh do hàn trệ.
Một số bài thuốc tiêu biểu:
– Cửu Vị Khương Hoạt Thang: Bạch Chỉ phối Khương Hoạt, Phòng Phong trị phong hàn thấp gây đau đầu, mình mẩy.
– Tân Di Thang: phối Tân Di, Ké Đầu Ngựa, Bạch Chỉ trị viêm xoang, ngạt mũi, đau đầu vùng trán.
– Tiêu Độc Thang: phối Kim Ngân Hoa, Liên Kiều, Bạch Chỉ để bài nùng tiêu viêm, trị mụn nhọt, đinh độc.
Bên cạnh những gì ta đã biết…
… còn có nhiều điều khiến người xưa yêu quý vị thuốc trắng này:
– Bạch Chỉ là một trong số ít vị thuốc dẫn được vào đầu mặt, nên thường dùng trong các chứng đau đầu, viêm xoang rất hiệu quả.
– Ngoài công dụng nội khoa, rễ tươi có thể giã nát đắp lên mụn nhọt đang mưng mủ, giúp làm chín mủ nhanh, tiêu sưng viêm.
– Trong các bài thuốc trị bế kinh do hàn trệ, Bạch Chỉ thường được phối với Ngải Cứu, Hương Phụ, Ích Mẫu để điều kinh, thông huyết.
Về cách bào chế ứng với công dụng:
– Dùng sống để khu phong, thông khiếu, trừ tà ở phần đầu mặt.
– Dùng sao rượu để tăng tác dụng giảm đau, điều kinh.
– Có thể nấu thang, tán bột, hoặc dùng ngoài tùy theo mục đích điều trị.
Gia giảm tùy thể bệnh:
– Nếu đau đầu do phong hàn: phối Khương Hoạt, Xuyên Khung.
– Nếu mụn nhọt sưng đau: phối Kim Ngân Hoa, Liên Kiều, Bồ Công Anh.
– Nếu kinh nguyệt bế tắc, đau bụng do hàn: phối Ngải Cứu, Hương Phụ, Ích Mẫu.
Đừng quên:
Bạch Chỉ tính ấm, cay thơm, không dùng cho người âm hư, nhiệt thịnh, chảy máu cam, ho khan do âm hư hỏa vượng.
Người thể nhiệt, nhiều mụn đỏ, táo nhiệt nên thận trọng khi dùng.
Dù là vị thuốc trắng, nhưng trắng ấy phải dùng đúng thì mới trong, nếu sai thì thành hư hỏa phát tán.
Bạch Chỉ – hương trắng của sự khai thông
Giữa những vị thuốc rực rỡ, có một vị lặng lẽ mà luôn đứng ở đầu toa: Bạch Chỉ. Không ồn ào, không phô trương – chỉ lặng lẽ dẫn đường, mở lối, đưa các phương thuốc vào sâu nơi cần đến. Nó là vị thuốc của “người mở lối” – như một dòng gió mát rượi trong khuôn mặt đang đau nhức, như một ngọn đèn trong đêm tối u mê của bệnh phong hàn.
“Không sắc màu diễm lệ,
Chỉ trắng một màu thôi.
Vậy mà thông cả lối,
Cho đau nhẹ, khí trôi…”
