Bạch Biển Đậu – hạt trắng giữa mùa sương, thuốc ôn trung dưỡng tỳ, giải thử tiêu thấp

Có những hạt nhỏ bé, không thơm nức, chẳng sắc màu lạ, nhưng lại là chỗ dựa bền bỉ cho bao bài thuốc ôn trung kiện tỳ. Bạch Biển Đậu là một vị như thế – mộc mạc, trắng ngà như sương sớm, có mặt trong gian bếp người xưa, trên chiếu thuốc người bệnh, và trong tâm thức bao thế hệ thầy lang – như một vị thuốc “bình dị mà cần thiết”.
Giữa mùa hè oi bức, người ta thường hay mệt mỏi, ăn kém, bụng trướng, miệng khát – ấy là lúc Bạch Biển Đậu phát huy vai trò: vừa giải thử nhiệt, vừa kiện tỳ hóa thấp, giúp người nhẹ bụng, sáng tinh thần.
Giai thoại – hạt đậu cứu mạng ngày nắng hạn
Tương truyền có năm đại hạn ở phương Nam, ruộng đồng khô cằn, người ốm hàng loạt vì kiệt sức, tiêu hóa đình trệ. Một vị lão y đi qua vùng đó, thấy ai cũng dùng thuốc bổ mà không khỏi, ông bèn cho họ sắc uống hạt trắng của cây đậu mọc ven suối. Mấy ngày sau, bụng người bớt chướng, ăn vào không nôn, mồ hôi thôi đổ, sức khỏe dần hồi phục.
Từ đó, người dân tôn hạt ấy là “đậu cứu mệnh”, còn người thầy thuốc thì chỉ nhẹ nhàng gọi tên nó: Bạch Biển Đậu – hạt của mùa nắng, thuốc của những cơn mệt mỏi vì thấp nhiệt.
Nguồn gốc của vị thuốc
Bạch Biển Đậu là hạt già đã chế biến của cây Dolichos lablab L. (thường gọi là đậu ván trắng), thuộc họ Đậu – mọc nhiều ở các tỉnh miền núi và trung du nước ta.
Hạt khi còn sống có vỏ cứng, màu trắng ngà, phơi khô, tách vỏ, rồi sao vàng hoặc tẩm rượu, tán bột dùng làm thuốc.
Thành phần – mềm mượt như sữa, ấm áp như nắng sớm
Bạch Biển Đậu (10 – 30g) – vị ngọt, tính ôn, quy vào kinh Tỳ – Vị. Trong hạt chứa protid, lipid, tinh bột, vitamin nhóm B, đường và chất béo tự nhiên – có tác dụng kiện tỳ – hóa thấp – giải thử – tiêu thũng – chỉ tả – trừ độc.
Đây là vị thuốc ôn hòa, có thể dùng lâu dài, thích hợp cho người tỳ hư, tiêu hóa yếu, suy nhược sau bệnh hoặc trong mùa hè oi bức.
Công dụng – bồi tỳ vị, tiêu thấp thử, giúp ăn ngon, tiêu hóa tốt
Trong y học cổ truyền, Bạch Biển Đậu có công năng: kiện tỳ – hóa thấp – chỉ tả – giải thử – tiêu thũng.
Thường dùng trong các trường hợp:
– Ăn kém, đầy bụng, tiêu hóa kém, tiêu chảy do tỳ hư.
– Người mệt mỏi, khát nước, đổ mồ hôi do cảm nắng, thử nhiệt.
– Phù nhẹ, tiểu tiện ít, bụng trướng.
– Người mới ốm dậy, kém ăn, yếu sức.
Một số bài thuốc ứng dụng:
– Biển Đậu Thang: dùng riêng hoặc phối với Ý Dĩ, Hoài Sơn để kiện tỳ, ích vị.
– Thanh Thử Ích Khí Thang: phối Mạch Môn, Tây Dương Sâm, Trúc Diệp để thanh nhiệt, sinh tân.
– Gia giảm Lý Trung Thang: thêm Bạch Biển Đậu để ôn trung kiện tỳ, hỗ trợ tiêu hóa.
Cách lựa chọn dược liệu và bào chế
Bạch Biển Đậu là hạt của cây biển đậu trắng (giống đậu ván trắng), thường được trồng ở vùng quê nắng nhiều gió nhẹ. Vị thuốc tốt là hạt to tròn đều, màu trắng ngà, vỏ nhẵn, nhân chắc, không sâu mọt, không nứt. Khi bẻ đôi, thấy nhân đầy đặn, mịn, không xốp rỗng là đạt. Hạt mốc, lép, có đốm đen hoặc mùi ẩm là không dùng được.
Sau khi thu hoạch, Bạch Biển Đậu được phơi khô, bỏ hạt lép, rồi sao vàng hoặc sao thơm để giảm tính dính ẩm và tăng khả năng kiện tỳ, hóa thấp. Trong các bài thuốc thanh thử, giải độc, hạt có thể tán vụn hoặc nấu chín để phối với các vị như Hoắc Hương, Hậu Phác, Ý Dĩ. Tuy chỉ là một hạt đậu đơn sơ, nhưng khi đi vào thang thuốc, Bạch Biển Đậu lại đóng vai trò là “người hòa giải” – làm dịu tỳ vị mệt mỏi, giúp trung tiêu thông suốt và hóa giải thấp nhiệt nhẹ nhàng như một làn gió mát giữa ngày hè oi bức.
Bên cạnh những gì ta đã biết…
… còn có những điều nhỏ nhưng rất tinh tế:
– Bạch Biển Đậu không chỉ là thuốc, mà còn có thể nấu cháo, hầm canh, tán bột, dùng như món ăn dưỡng sinh – vị ngọt nhẹ, bổ mà không ngán.
– Dùng lâu giúp bổ khí, dưỡng tỳ, tăng đề kháng – đặc biệt tốt cho người già, trẻ nhỏ, người hay mệt, dễ cảm, tiêu hóa kém.
– Ở miền Nam thường gọi là đậu ván trắng, có nơi dùng cả vỏ; còn miền Bắc chủ yếu bỏ vỏ, chỉ lấy nhân trắng làm thuốc.
Về cách bào chế ứng với công dụng:
– Sao vàng cho thơm, hoặc sao với rượu để kiện tỳ mạnh hơn.
– Nếu dùng giải thử – hóa thấp: sao nhẹ hoặc để sống rồi tán bột.
– Có thể tán bột mịn, hãm uống như trà hoặc trộn mật làm hoàn dùng lâu dài.
Gia giảm tùy thể bệnh:
– Tiêu chảy kéo dài do tỳ hư: phối Hoài Sơn, Liên Nhục, Ý Dĩ.
– Cảm nắng, khát, ra mồ hôi: phối Trúc Diệp, Hoàng Liên, Ngọc Trúc.
– Mệt mỏi sau bệnh, ăn kém: phối Nhân Sâm, Bạch Truật, Cam Thảo.
Đừng quên:
Dù là vị thuốc lành, Bạch Biển Đậu không nên dùng khi có thực tích, bụng đầy, táo bón chưa tiêu, nhiệt thịnh, vì vị thuốc này thiên về bổ mà dễ sinh trệ nếu không hợp thể trạng.
Người đang bị cảm lạnh, đau bụng đi ngoài do nhiễm lạnh cấp thì nên tạm ngưng dùng.
Ngoài ra, cần sao chế kỹ để giảm tính hàn ẩm còn tồn trong hạt, tránh gây đầy bụng ở người tỳ vị yếu.
Bạch Biển Đậu nên dùng như một người bạn song hành – không phải khi bệnh đã nặng, mà khi cơ thể bắt đầu mỏi mệt, để giữ cho tỳ vị không sa sút, cho khí lực không tiêu hao. Dưỡng mà không làm hại, bổ mà không gây bức bối – đó chính là cái hay của hạt trắng âm thầm này.
Bạch Biển Đậu – hạt lành giữa mùa oi, vị nhẹ mà giữ được người
Có những vị thuốc không cầu kỳ, không đắt đỏ, nhưng lại giúp giữ cho người không bị hao gầy sau bệnh, cho những ngày nắng không khiến cơ thể trĩu mỏi. Bạch Biển Đậu là thế – như bát cháo trắng thơm vào buổi sáng, như tiếng gió thoảng qua lòng người khi tỳ vị chưa kịp nói ra lời mỏi mệt.
“Trắng như sương sớm mai,
Chín mềm trong bát thuốc.
Không cần nói nhiều lời –
Mà giữ người khỏi mất…”
