Sa Sâm – rễ trắng thanh âm, dịu phổi khô và vị nhiệt

Có những người không ho mạnh,
chỉ khan khan cả ngày, cổ họng rát như lưỡi cưa, nói vài câu đã mệt.
Có những người sốt nhẹ, lâu không dứt, miệng đắng, môi khô, hơi thở nóng nhưng tiếng nói lại yếu.
Cũng có người ăn ít, bụng trướng nhẹ, rêu lưỡi mỏng, tân dịch khô như đất chớm nẻ.
Đó là khi phế âm bị tổn, vị âm khô hạn, khí suy mà hỏa lặng, cần một vị thuốc mát mà không lạnh – bổ mà không gắt, như một vốc nước múc từ lòng suối ngầm, thấm từ từ vào phế vị.
Ấy chính là Sa Sâm – rễ cây mảnh nhỏ nhưng ngọt hậu, dưỡng âm mà không làm hại dương, thanh hư nhiệt mà vẫn giữ cho cơ thể tỉnh táo.
Giai thoại – Người hát chèo khản tiếng và nắm rễ thơm như đất mới đào
Một cô đào hát chèo xưa, nổi tiếng vì giọng ngân cao vút như sáo trúc,
nhưng qua một trận ốm sốt kéo dài – tiếng khản đặc, cổ họng rát, hát vài câu đã hụt hơi.
Người thầy thuốc không dùng cam thảo, không dùng cát cánh,
mà đưa cho nàng một nắm rễ nhỏ mảnh, thơm nhẹ như mùi đất sau cơn mưa.
Ấy là Sa Sâm, tán cùng Ngọc trúc, Bối mẫu, Mạch môn, nấu uống thay trà.
Ba tuần sau – tiếng hát lại ngân, mà không cần gắng.
Nàng cười:
“Thứ rễ nhỏ ấy đã chạm tới nơi sâu nhất trong cổ họng tôi.”
Tính vị và công năng – ngọt, hơi đắng, mát, dưỡng âm thanh phế, ích vị sinh tân
Sa Sâm – vị ngọt, hơi đắng, tính mát, quy vào phế – vị, có công năng:
. Dưỡng âm – thanh phế – chỉ khái: dùng trong ho khan lâu ngày, cổ họng rát, khô miệng, khát nước, phối Bối mẫu, Ngọc trúc, Sinh địa.
. Ích vị – sinh tân: dùng khi tân dịch tổn hao do sốt lâu ngày, ăn kém, nóng trong, táo nhẹ, phối Mạch môn, Thiên hoa phấn.
. Hạ hư nhiệt nhẹ – làm dịu phiền khát: cho người sau sốt, miệng khô, ngủ chập chờn, dễ cáu gắt.
So với Bắc Sa Sâm, Nam Sa Sâm (Glehnia littoralis) có dược tính nhẹ hơn, vị ngọt hơn, thường được dùng trong dân gian nhiều hơn, thích hợp với trẻ em, người già, người mới khỏi bệnh.
Cách chọn thuốc tốt và các phương pháp bào chế – rễ dài trắng ngà, mùi mát, vị ngọt hậu
Sa Sâm là rễ phơi khô của cây Sa Sâm (Glehnia littoralis). Loại tốt:
• Thân rễ mảnh dài, trắng ngà hoặc vàng nhạt, có nếp nhăn dọc, mùi thơm dịu nhẹ.
• Khi bẻ có lõi chắc bên trong, không xốp rỗng, không mốc hoặc nâu đen.
• Khi sắc, nước trong, vị ngọt nhẹ thanh, hậu ngọt mềm.
• Dùng sống để dưỡng âm – thanh phế.
• Có thể sao nhẹ với rượu để tăng tác dụng dưỡng phổi, chống khô.
• Tránh nấu quá lâu – sẽ mất vị ngọt đặc trưng.
Bên cạnh những gì ta đã biết…
Sa Sâm có mặt trong nhiều bài thuốc cổ:
• Sa sâm mạch môn thang – trị ho khan lâu ngày, cổ họng đau rát, nóng âm ỉ trong ngực.
• Thanh dưỡng ẩm phế ẩm – trị suy nhược do hư nhiệt kéo dài, phế vị âm hư.
• Dân gian thường dùng nấu nước uống sau khi ốm – cho trẻ suy nhược ăn kém.
Y học hiện đại xác nhận: chứa glycoside, coumarin, tinh dầu, acid hữu cơ, có tác dụng:
• Bổ sung tân dịch, chống oxy hóa niêm mạc họng – phế, làm dịu ho, hỗ trợ tiêu hóa.
• Hỗ trợ ổn định thần kinh, an thần nhẹ, cải thiện giấc ngủ sau sốt, suy nhược.
Đừng quên…
. Không dùng cho người đầy bụng do hàn – tiêu chảy thể lạnh – tỳ dương hư.
. Dùng đều – không quá liều – Sa Sâm có vị ngọt âm, dễ trệ nếu dùng lâu mà không phối hợp.
. Không kết hợp với thuốc tả hạ mạnh hoặc thuốc ôn dương quá gắt.
Sa Sâm – giọt mát dịu rót vào ngực khô, cổ rát và lòng người mới ốm dậy
Không sắc sảo,
Không ồn ào,
Chỉ là một chút dịu lành từ rễ mảnh đất cát,
đủ để làm mềm giọng nói,
thanh lại hơi thở,
và mát phần âm khí đang khô hạn nơi đáy phế…
