Quế Chi – mở lối cho dương khí trở mình sau những ngày lạnh lẽo

Có những người cảm lạnh nhẹ mà mồ hôi không ra,
sốt âm ỉ, thân ê ẩm, cổ gáy cứng – đầu nặng như treo.
Lại có những người đau bụng mỗi kỳ kinh, chân tay lạnh buốt, sắc mặt trắng xanh…
Cũng có những đứa trẻ đêm ngủ ra mồ hôi trộm, ban ngày lại dễ cảm, hay sốt vặt, tiêu hóa yếu…
Đó là khi dương khí bị bế ở biểu, không thoát ra cũng không thể trở lại – như hơi ấm bị giam trong một lớp áo ẩm.
Người thầy thuốc không dùng thuốc mạnh, không hạ sốt gấp, mà lấy ra một cành quế khô nhỏ, mùi thơm nhẹ nhưng ấm lan rất xa.
Ấy là Quế Chi – cành non của cây quế, có thể khai thông dương khí – điều hòa doanh vệ – hỗ trợ thông kinh lạc – dẫn thuốc vào huyết mạch.
Giai thoại – Cô gái hay lạnh và bài thuốc mở cửa khí huyết
Cô ấy trẻ, dáng thanh, nhưng chân tay lạnh – bụng đau âm ỉ, kinh nguyệt mỗi kỳ đều trễ, máu ít mà sẫm.
Chẩn mạch, thấy phù mà yếu, môi nhợt, tim đập hẫng khi chuyển mùa.
Một ông thầy già chỉ lặng lẽ viết bài Quế chi thang – phối với Bạch thược, Sinh khương, Đại táo, Cam thảo, dặn uống nóng.
Cô gái chưa đến 5 thang đã thấy người ấm lại, bụng không còn đau, kinh đến tự nhiên.
“Chỉ là một cành quế nhỏ – mà như ngọn gió mở cửa sổ cho nắng vào.” – cô nói.
Tính vị và công năng – cay, ngọt, ấm, khai dương, thông kinh, trừ hàn, chỉ thống
Quế Chi – vị cay, ngọt, tính ấm, quy vào tâm – phế – bàng quang – can, có các công năng:
. Phát hãn giải biểu – điều hòa doanh vệ: dùng khi cảm phong hàn nhẹ, sốt – không mồ hôi – đầu đau gáy cứng, phối Sinh khương, Đại táo.
. Ôn kinh thông mạch – trừ hàn chỉ thống: dùng khi đau bụng kinh do hàn, đau khớp, đau ngực âm ỉ, chân tay lạnh mạn, phối Bạch thược, Đương quy, Xuyên khung.
. Ôn dương hành thủy: trị tiểu tiện bí, phù do dương hư, phối Phục linh, Trạch tả.
. Dẫn thuốc vào kinh dương – hỗ trợ thuốc bổ huyết, bổ khí.
Quế Chi thiên về biểu – huyết – kinh mạch, thích hợp dùng cho người âm hàn, dương khí yếu, cơ thể gầy – sắc nhợt – dễ nhiễm lạnh.
Cách chọn thuốc tốt và các phương pháp bào chế – cành quế nhỏ, thơm ngọt, không lẫn vỏ thô
Quế Chi là cành non đã phơi hoặc sấy khô của cây Quế (Cinnamomum cassia hoặc C. loureiroi). Loại tốt:
• Mảnh nhỏ, dài khoảng 10–20cm, màu nâu đỏ, thơm ngọt dịu, không gắt, khi bẻ có tiếng giòn nhẹ.
• Mùi thơm lan xa, không khét, không mốc.
• Khi ngâm nước ấm có vị cay dịu và hậu ngọt ấm lan ở cổ họng.
• Dùng sống trong các bài phát hãn – điều hòa khí huyết.
• Có thể tẩm rượu sao nhẹ để tăng tác dụng chỉ thống – ôn kinh.
Bên cạnh những gì ta đã biết…
Quế Chi có mặt trong nhiều phương thang cổ nổi tiếng:
• Quế Chi thang – trị cảm phong hàn biểu hư, đau gáy, không mồ hôi, nhẹ sốt.
• Quy tỳ thang – gia Quế Chi – hỗ trợ điều khí, làm ấm tỳ vị.
• Tứ vật thang – gia Quế Chi – cho người huyết hư kèm hàn, kinh trễ, đau bụng.
• Ôn kinh thang, Thăng khí thang – đều dùng Quế Chi để dẫn dương, thông mạch.
Y học hiện đại cho biết: chứa cinnamaldehyde, eugenol, flavonoid, có tác dụng:
• Giãn mạch ngoại biên, tăng tuần hoàn, an thần nhẹ,
• Chống co thắt, giảm đau bụng kinh, kháng viêm, kháng khuẩn nhẹ,
• Giúp ấm người, hỗ trợ tiêu hóa, cải thiện giấc ngủ do hư hàn.
Đừng quên…
. Không dùng cho người đang nội nhiệt, sốt cao, đổ mồ hôi nhiều, chảy máu.
. Phụ nữ có thai cần thận trọng – tránh dùng liều cao.
. Không nên dùng chung với Nhục Quế trong một bài thuốc – tránh trùng công năng quá mạnh.
Quế Chi – cành quế nhỏ mở lối cho dương khí quay về, làm ấm những tháng ngày lạnh lẽo
Không nồng gắt như vỏ quế,
Không nặng như thuốc bổ,
Chỉ là một nhành nhỏ thơm – đủ sức đánh thức dương khí bị giam kín,
giúp hơi thở thông – mạch máu chảy,
và lòng không còn lạnh nữa…
