Mộc Dược – từng giọt nhựa vàng thơm giúp hàn gắn vết đau trong gân, trong huyết, và trong lòng

Ở vùng đất Trung Đông xa xôi, có một loài cây cằn cỗi, sần sùi, nhưng mỗi khi bị thương, nó tiết ra thứ nhựa vàng thơm lừng – khô lại thành từng giọt hổ phách, người ta gọi là Mộc Dược.
Nhựa cây ấy không chỉ thơm – mà còn ấm, hành khí, hoạt huyết, tiêu viêm, giảm đau, sinh cơ, liền sẹo. Mỗi khi có ai đau do huyết ứ, sưng tấy, khớp lạnh đau, vết thương mưng mủ không lành, thì người thầy thuốc lại chọn Mộc Dược – như một lời vỗ về từ rừng cằn nứt nẻ.
Giai thoại: Vết thương không lành của người lính và viên thuốc thơm từ nhựa khô lặng lẽ
Có người lính năm xưa bị thương, vết dao chém đã khô nhưng da không liền, thịt cứ sưng, đau, tấy đỏ từng ngày. Một thầy thuốc phương Nam, không băng bó nhiều, chỉ đưa một viên hoàn thơm gồm Mộc Dược, Nhũ Hương, Bạch chỉ, Huyết kiệt, cho ngậm rồi uống, sau đó bôi nước sắc lên vết thương.
Bảy ngày sau, miệng vết khép dần, đỏ dịu, đau lắng lại. Người lính nhìn viên thuốc thơm trong tay, bảo:
“Không phải thứ sát trùng, mà là hương thơm đã thuyết phục da thịt chịu lành.”
Tính vị và công năng – cay đắng mà ấm, thông lạc mà sinh cơ, tiêu ứ – chỉ thống – liền miệng
Mộc Dược có vị đắng, cay, tính bình, quy kinh can – tỳ – vị, là vị thuốc hoạt huyết, hành khí, tiêu sưng, giảm đau, sinh cơ liền sẹo.
. Khi chấn thương bầm tím, gân cơ đau nhức, máu tụ không tan, Mộc Dược phối cùng Nhũ Hương, Huyết kiệt, Tam lăng để hoạt huyết tiêu ứ – giảm đau – chống sưng.
. Trong các bài thuốc trị đau bụng kinh, đau dạ dày do khí trệ huyết ứ, Mộc Dược đi cùng Mộc hương, Ô dược, Ngô thù du để hành khí chỉ thống.
. Với các vết thương lâu ngày không khô, lở loét dai dẳng, vết mổ khó lành, Mộc Dược sắc đặc để rửa, hoặc tán bột phối Nhũ Hương, rắc lên, giúp sinh cơ, tái tạo da non.
. Còn được dùng trong bài thuốc dưỡng thai có đau bụng do huyết ứ, phối Đương quy, Xuyên khung, Nga truật, với liều thấp – cẩn trọng.
Mộc Dược không chỉ làm tan đau, mà còn thuyết phục máu huyết lưu thông – gân cơ chấp nhận tái sinh – da thịt đồng lòng khép miệng vết thương.
Cách chọn thuốc tốt và các phương pháp bào chế – như chọn từng giọt hổ phách còn vương nắng rừng phương Tây
Mộc Dược tốt là nhựa khô màu vàng nâu, trong sáng như hổ phách, thơm nhẹ, không lẫn tạp, không bụi cát. Loại có xuất xứ vùng Ả Rập hoặc Iran thường được đánh giá cao nhất.
Cách dùng:
. Tán bột – làm hoàn: trị đau khớp, chấn thương, khí trệ huyết ứ lâu ngày.
. Sắc uống: trong các bài thuốc trị đau dạ dày, đau kinh, chấn thương có ứ huyết.
. Bôi ngoài: trộn với rượu hoặc mật ong, bôi lên vết loét, sẹo lâu lành.
. Đốt xông thơm nhà – trừ khí uế, an thần nhẹ, đôi khi dùng trong y học cổ Ai Cập.
Khi dùng, luôn phối với vị hành khí, hoạt huyết, tiêu viêm để dẫn đạo – nâng tác dụng – tránh bế kết.
Bên cạnh những gì ta đã biết…
Trong Bản Thảo Cương Mục, Lý Thời Trân viết: “Mộc Dược khứ ứ, tiêu thũng, thống kinh, sinh cơ, khép khẩu.”
Y học hiện đại phát hiện Mộc Dược có tác dụng kháng viêm, giảm đau, tăng sinh mô mới, làm liền vết thương, có tính kháng khuẩn nhẹ.
Ngày nay, nhiều nhà dược vẫn dùng Mộc Dược phối Nhũ Hương trong các viên hoàn trị đau khớp, đau dây thần kinh, viêm nha chu, loét dạ dày.
Đừng quên…
. Không dùng cho người huyết hư không ứ, hoặc đang chảy máu chưa cầm.
. Không dùng liều cao cho phụ nữ có thai – có thể gây hoạt huyết quá mạnh.
. Dùng ngoài tránh vùng da nhạy cảm, thử phản ứng trước.
Mộc Dược – giọt nhựa thơm khuyên thân thể đừng ôm mãi những đau thương cũ
Không là búa đập,
Không là kim cắt,
Mộc Dược là nhựa thơm nói lời an ủi,
Cho huyết ứ chịu tan,
Cho thịt da chịu lành,
Cho những khối đau xưa rút đi trong yên lặng.
