Miết Giáp – chiếc mai cũ chạm vào những khối cứng trong thân thể và tâm can

Có những nỗi đau không nhức nhối mà cứ âm ỉ lớn lên. Có những khối u không nóng đỏ mà nằm lì trong ngực bụng, không chịu tan. Khi ấy, người thầy thuốc nghĩ đến Miết Giáp – vỏ yếm của ba ba, loài vật sống âm thầm dưới đáy hồ sâu, gắn liền với thuỷ – âm – sự trầm lắng và phá tan âm kết.
Từ ngàn xưa, người làm thuốc đã thu lấy mai của ba ba đã qua chế biến, sắc lên với các vị khác, để phá khối huyết tích, u hạch, đờm cứng, trệ lâu ngày. Miết Giáp không vội, không gắt, nhưng âm thầm như nước ngầm chảy, phá núi theo thời gian.
Giai thoại: Người đàn bà có khối rắn như đá trong ngực và bát thuốc âm thầm làm tan
Có một người đàn bà trung niên, ngực có khối cứng không đau nhưng ngày càng lớn. Đi khám thì không rõ lành hay dữ, chỉ được khuyên theo dõi. Một ông lương y già xem mạch xong, lặng lẽ kê bài Xuyên Bối mẫu – Miết Giáp – Tam lăng – Nga truật – Huyết kiệt.
Thang thuốc được uống đều trong ba tháng, mỗi lần như một lời thầm thì. Khối u không biến mất ngay, nhưng bắt đầu mềm, di động hơn, và cuối cùng tan dần như sương sớm. Ông chỉ cười:
“Miết Giáp không gõ vỡ đá, nó chỉ khiến đá tự muốn rã tan.”
Tính vị và công năng – mặn mà tầm sâu, âm mà không hàn, phá huyết, mềm kiên, trừ ẩn kết lâu ngày
Miết Giáp có vị mặn, tính hơi hàn, quy vào can – thận – phế, là vị thuốc phá ứ, tán kết, nhuận âm, tiêu hạch, trừ đàm, tiềm dương.
. Dùng trong các chứng u hạch, khối cứng trong ngực bụng, kết hạch ở cổ, vú, gan, tử cung, Miết Giáp phối với Nga truật, Tam lăng, Xuyên luyện tử, Thanh bì để phá kết – hành khí – tiêu u.
. Với các chứng đàm trệ lâu ngày gây ho, khó thở, kết khối vùng phế quản, Miết Giáp phối Bán hạ, Xuyên bối, Hạnh nhân giúp làm mềm, tán đàm tích, khơi lại khí đạo.
. Trong các bài trị kinh nguyệt không đều do huyết ứ, đau bụng từng cơn, đau sau sinh, Miết Giáp đi cùng Hồng hoa, Ngưu tất, Đào nhân để phá huyết kết, điều kinh.
. Đặc biệt, trong chứng âm hư dương vượng, can dương bốc, mất ngủ lâu ngày, Miết Giáp phối với Quy bản, Mẫu lệ, Thục địa để tiềm dương, an thần, dưỡng huyết âm.
Miết Giáp như kẻ thợ lành sửa mái nhà đã lệch, cởi từng nút thắt trong huyết – đàm – u kết, bằng sự nhẫn nại hơn là tấn công.
Cách chọn thuốc tốt và các phương pháp bào chế – như chọn mảnh vỏ cũ biết lắng nghe hơi thở tắc nghẽn của người bệnh
Miết Giáp tốt là mảnh vỏ phẳng, dày, mặt trong có màu vàng ngà, mặt ngoài sậm đều, không mốc, không cong vênh. Vị có nguồn gốc từ ba ba nuôi, đã được chế biến loại độc và tạp chất, là loại an toàn dùng trong thuốc.
Cách chế biến:
. Nướng phồng – tán bột: giúp tiêu kết mạnh, thường dùng trong bài trị u, kết hạch.
. Chế với giấm – tán mịn: tăng khả năng phá huyết ứ, trừ cục rắn trong bụng.
. Sắc thang: phối cùng hành khí, hoạt huyết để dẫn thuốc vào kinh can – tỳ – tử cung.
. Hoàn tễ: dùng lâu ngày với lượng nhỏ, hỗ trợ điều trị u xơ tử cung, nhân tuyến giáp, gan nhiễm mỡ có kết hạch.
Người làm thuốc luôn dặn: Miết Giáp cần phối với vị hành khí – hoạt huyết – tiêu đàm để đưa thuốc đúng đường, không nên dùng đơn độc.
Bên cạnh những gì ta đã biết…
Trong Trung Dược Đại Từ Điển, Miết Giáp được ghi nhận là vị thuốc tiêu u mềm kiên hàng đầu, thường dùng trong các bài cổ như Miết Giáp hoàn, Tam lăng tán, Quy bản hoàn.
Một số nghiên cứu hiện đại cũng cho thấy Miết Giáp có tác dụng ức chế khối u, chống viêm, điều hòa miễn dịch, hỗ trợ điều trị u lành tính, bướu cổ, xơ gan có nhân.
Đừng quên…
. Không dùng cho phụ nữ có thai, người hư yếu, tiêu chảy mạn, huyết hư không có kết.
. Cần phân biệt rõ chứng u – kết – trệ mới dùng, tránh lạm dụng vị này khi không có thật chứng.
. Không dùng lâu dài nếu không phối hợp với vị dưỡng âm – bổ huyết.
Miết Giáp – vỏ cũ của thủy sinh, đi sâu vào thân thể để tháo những khối âm kết lặng lẽ
Không lên tiếng,
Không xông thẳng,
Miết Giáp là mảnh vỏ trầm dưới nước sâu,
Chạm vào những kết khối âm ỉ,
Gõ vào u trệ lâu năm,
Rồi làm chúng mềm đi,
Như gió chạm lá, như nước thấm đất khô.
