Mã Tiền Tử – hạt độc lặng lẽ cắt đứt cơn đau không ai thấy được

Giữa rừng sâu, có một loài cây mọc cô độc, lá xanh rậm, hoa nhỏ nhạt màu. Khi mùa hạ đến, quả chín, bên trong là những hạt tròn cứng như đá, bóng như sừng, có màu nâu sẫm – người xưa gọi là Mã Tiền Tử. Đừng để vẻ ngoài lặng lẽ đánh lừa, bên trong hạt ấy là độc, nhưng cũng là dược, nếu biết chế luyện và dùng đúng lúc.
Mã Tiền Tử có thể làm tê bại, cũng có thể làm co giật tan ra. Nó có thể gây chết người, nhưng cũng là hy vọng duy nhất của người liệt nửa người đang thoi thóp mong một cơ hội hồi phục.
Giai thoại: Người lính cụt nửa người và giọt thuốc từ hạt nguy hiểm nhất rừng sâu
Sau một trận gió độc, người lính già đột nhiên không nói được, mặt lệch, tay chân co rút. Nhiều bài thuốc không hiệu quả, thầy thuốc địa phương đánh liều lấy Mã Tiền Tử đã chế biến, phối cùng Xuyên khung, Bạch phục linh, Cam thảo, sắc thật nhạt, uống từng thìa nhỏ.
Ngày thứ năm, ngón tay ông nhúc nhích. Ngày thứ mười, miệng ông nói được hai chữ. Thầy thuốc chỉ lặng lẽ gật đầu:
“Thuốc không phải luôn dịu dàng. Có những cơn đau phải cắt bằng dao.”
Tính vị và công năng – đắng cay như kim, có độc như gươm, nhưng phá trệ – thông lạc – chỉ thống tuyệt vời
Mã Tiền Tử có vị đắng, cay, tính hàn, có độc mạnh, quy kinh can – tỳ – phế, là vị thuốc khu phong, tán kết, thông lạc, giảm đau – nhưng cần chế biến kỹ và dùng vô cùng cẩn trọng.
. Khi liệt mặt, co cứng gân cơ, phong thấp đau khớp lâu ngày, di chứng sau trúng phong, Mã Tiền Tử phối Xuyên khung, Bạch chỉ, Độc hoạt để khu phong, hoạt huyết, thông lạc.
. Trong các bài thuốc trị đau thần kinh tọa, liệt nhẹ, bán thân bất toại, đau do hàn thấp tích tụ lâu năm, Mã Tiền Tử là vị “mở lối”, nhưng phải dùng sau khi được chế biến tồn tính kỹ càng.
. Có khi người ta dùng ngoài, tán mịn bột đã chế, hòa cồn rượu xoa bóp trị đau xương khớp, sưng tê, trật đả.
Tuy công phá mạnh, nhưng nếu sai liều, sai cách, Mã Tiền Tử có thể gây co giật, ngừng thở – bởi vậy đây là “lưỡi gươm của thầy thuốc đã quen chiến trận.”
Cách chọn thuốc tốt và các phương pháp bào chế – như chuốt kim bén từ sắt thô, mài gươm sắc từ gang độc
Mã Tiền Tử tốt là hạt to đều, màu nâu đậm, chắc, không sâu mọt, không ẩm mốc. Để dùng được, phải tồn tính – tức là chế biến kỹ để giảm độc tính.
Phương pháp chế biến cổ truyền:
. Tẩm nước gừng, ngâm lâu, sao đến khi hạt giòn, mất mùi hắc – gọi là Mã Tiền tử chế.
. Nướng trên than đến khi vỏ nứt, xay mịn, sàng kỹ – dùng trong thuốc hoàn hoặc thuốc bột.
. Tán mịn, trộn với dầu hoặc rượu thuốc bôi ngoài – dùng trong trật đả, đau nhức.
. Không bao giờ dùng sống – kể cả ngoài da – vì độc tính mạnh.
Người bốc thuốc phải biết phân biệt kỹ từng lô Mã Tiền đã chế hay chưa, và chỉ dùng với liều rất nhỏ (dưới 0.3g/ngày) khi dùng trong bài thuốc.
Bên cạnh những gì ta đã biết…
Trong Bản Thảo Cương Mục, Lý Thời Trân viết: “Mã Tiền, độc dược chi chủ, có thể hành phong trừ thống, thông lạc trệ, cứu kẻ á khẩu, gân co, xương tê – nhưng phải khéo dùng.”
Y học hiện đại đã xác nhận hạt Mã Tiền chứa strychnine – độc chất tác động mạnh lên thần kinh, gây co cơ, co giật. Nhưng nếu dùng liều thấp sau chế biến, có thể kích thích nhẹ thần kinh trung ương, tăng trương lực cơ, cải thiện vận động.
Ngày nay, Mã Tiền chế vẫn được dùng trong một số bài thuốc gia truyền trị đau dây thần kinh, liệt mặt, thoát vị đĩa đệm, thấp khớp mạn tính.
Đừng quên…
. Tuyệt đối không dùng sống – dù là uống hay bôi.
. Không dùng cho trẻ nhỏ, phụ nữ có thai, người huyết áp cao, tim mạch yếu.
. Phải dùng đúng liều, đúng bài, đúng cách chế biến – không tự ý dùng.
. Dùng ngoài cũng phải thử phản ứng da trước, không bôi diện rộng.
Mã Tiền Tử – hạt nhỏ chứa gươm bén, cắt cơn đau trong lặng lẽ
Không mềm như hoa cúc,
Không dịu như cam thảo,
Mã Tiền Tử là hạt cứng như kim,
Gác ngoài cửa tử,
Chờ một thầy thuốc dũng cảm và hiền minh,
Rút ra khi thật cần,
Để cứu một người đang đau đến mức không nói nổi lời kêu cứu.
