Mộc Hương – rễ gỗ thơm trầm, hành khí chỉ thống, gỡ rối tỳ vị đang trệ uất bấy lâu

Người xưa nói:
“Khí không thông thì đau, mà Mộc Hương sinh ra là để thông.”
Từ một gốc rễ thơm lâu năm, người ta mang về rửa sạch, phơi khô, rồi sao sơ, để giữ lại cái ấm mà không thiêu, cái mạnh mà không hăng.
Vị ấy không lên thẳng như quế, không bốc như gừng, mà đi chậm – đi sâu – nhưng hễ đến là khí thông, đau dịu, bụng ấm, tiêu hóa trôi chảy.
Giai thoại – cô hàng cơm và bài thuốc trong lòng tay áo
Cô hàng cơm ở phố cổ – thường hay đau bụng mỗi khi bán đông khách, bụng đầy, không muốn ăn, mặt tái lại.
Có ông lương y quen ghé ăn, để lại cho cô một gói thuốc nhỏ – trong ấy là Mộc Hương, Sa Nhân, Cam Thảo, Trần Bì.
Bảo:
– “Khi thấy tức bụng, ăn kém, lấy một ít sắc lên – bụng sẽ lại nhẹ như cũ.”
Quả thật, từ hôm ấy, bụng cô nhẹ đi, quán lại vui như thường.
Người đi qua vẫn ngửi thấy mùi cơm chan lẫn chút hương trầm – là hương Mộc Hương.
Nguồn gốc của vị thuốc
Mộc Hương (木香) là rễ của cây Saussurea lappa – họ Cúc (Asteraceae), được trồng nhiều ở vùng núi cao như Vân Nam, Tứ Xuyên, Tây Tạng.
Ở Việt Nam, Mộc Hương chủ yếu được nhập, hoặc sử dụng loại tương tự như Uất Kim, Hương Phụ khi cần thay thế.
Sau khi thu hái, rễ được rửa sạch, thái lát, phơi khô, hoặc sao vàng để giảm bớt tính hàn và tăng khả năng hành khí.
Tính vị – cay ấm mà không gắt – mùi thơm bám sâu như hương gỗ lâu năm – là khí lực trầm ổn từ đất mẹ – gỡ rối những u uẩn trong tiêu hóa, trong ngực, trong lòng người
Mộc Hương (3 – 10g/ngày) – vị cay, đắng, tính ấm – quy kinh Tỳ – Vị – Đại Trường – Can.
Chứa:
• Tinh dầu (costunolide, dehydrocostus lactone…) – giúp kháng khuẩn, tiêu viêm, giảm co thắt ruột.
• Chất đắng – kích thích tiêu hóa, chống đầy trướng.
• Nhóm alkaloid nhẹ – an thần, điều khí, chống co bóp.
Thích hợp với người: đầy bụng – khó tiêu – tiêu chảy do lạnh – ăn uống không ngon – đau bụng do khí trệ – rối loạn tiêu hóa nhẹ kéo dài – lạnh bụng, chân tay lạnh.
Công dụng – hành khí – chỉ thống – kiện tỳ – điều trung – là vị thuốc dành cho những bữa ăn khó trôi, những cơn đau lưng lửng, những tiếng ợ âm thầm, những bụng trướng không rõ cớ
Ứng dụng trong các chứng:
• Đầy tức vùng bụng, ợ hơi, khó tiêu.
• Ăn uống kém ngon, chậm tiêu, phân nát.
• Đau bụng âm ỉ do khí trệ.
• Tiêu chảy do lạnh, đau quặn bụng.
• Tỳ vị hư hàn, khí trệ sau ăn.
Một số bài thuốc tiêu biểu:
• Hương Sa Lục Quân Tử Thang – bổ khí kiện tỳ, hành khí.
• Mộc Hương + Sa Nhân + Trần Bì – chữa đầy trệ tiêu hóa.
• Mộc Hương + Hoàng Liên – trị tiêu chảy do tỳ vị hư hàn.
• Mộc Hương + Bạch Truật + Cam Thảo – kiện tỳ, dưỡng vị, điều khí.
Cách chọn thuốc tốt và các phương pháp bào chế
Mộc Hương
Mộc Hương là rễ của loài cây thân mộc, mọc nơi sườn đồi đá, rễ ăn sâu, gom khí đất mà thành hương. Khi chọn, người thầy thuốc thường tìm những rễ mập chắc, hình trụ hơi cong, vỏ màu nâu xám, ruột vàng ngà, mùi thơm dịu và bền. Loại tốt khi bẻ ra có vân rõ, tỏa hương trầm ấm đặc trưng, không mốc, không vụn, không lẫn đất hay tạp chất.
Sau khi thu hái, rễ được rửa sạch, thái lát hoặc để nguyên khúc nhỏ rồi phơi khô nơi thoáng mát. Khi dùng, thường sao thơm để tăng tác dụng hành khí, giảm đau, ôn tỳ vị. Một số bài thuốc cổ còn sao với rượu hoặc gừng để dẫn khí sâu hơn vào trung tiêu, giúp hóa thấp, trục trệ, chỉ tả.
Chế Mộc Hương là một nghệ thuật giữ hương – bởi hương chính là linh hồn của vị thuốc này. Người thầy thuốc khi dùng, cũng như người thắp một nén hương trầm vào chỗ u tối trong thân thể – để gió khí được khai mở, để tiếng thở nhẹ nhàng hơn sau bao ngày đầy trệ.
Bên cạnh những gì chúng ta đã biết thì…
… Mộc Hương còn là vị thuốc của cảm xúc – không chỉ gỡ khí trong tạng phủ, mà còn giúp người đang bức bối – phiền muộn – ăn không tiêu – ngủ chẳng ngon – tìm lại được sự nhẹ nhàng từ bên trong.
• Có thể dùng riêng hoặc phối hợp, sắc uống sau bữa ăn.
• Sao vàng là cách phổ biến nhất – giúp dễ hấp thu, giảm tính kích thích.
Gia giảm tùy thể bệnh:
• Nếu đầy bụng, ăn kém: phối trần bì, thần khúc, mạch nha.
• Nếu tiêu chảy do lạnh: phối hoàng liên, cam thảo, bạch truật.
• Nếu đau bụng co thắt, khí trệ: phối sa nhân, hương phụ.
• Nếu bụng lạnh, tiêu hóa kém: phối phụ tử, sinh khương.
Đừng quên:
• Không nên dùng cho người âm hư nội nhiệt – nóng trong, hay khát.
• Dùng nhiều có thể làm hao khí – cần phối hợp bổ khí nếu dùng dài ngày.
• Mộc Hương có mùi thơm mạnh – cần liều lượng phù hợp, tránh gây đầy.
Mộc Hương – vị thuốc từ lòng đất – thơm như gỗ trầm, ấm như bàn tay mẹ, âm thầm gỡ rối cho những cơn đau quặn trong bụng, những trệ khí không tên, những tâm sự không nói được thành lời.
Thơm lặng trong lòng đất,
Ấm bụng giữa chiều đông.
Một nhúm rễ – mà dịu,
Một chén thuốc – mà thông…
“Mộc Hương – chẳng sắc sảo,
Nhưng gỡ được lòng đau.
Một mùi thơm – khi uống,
Lại nhẹ bụng – từ lâu…”
