Địa Cốt Bì – vỏ rễ khô lạnh, thanh hư nhiệt, làm dịu cơn sốt ngầm nơi thân thể âm hư

Địa Cốt Bì

Có những cơn sốt không ào ào lên cao, mà gặm nhấm về chiều, khiến người ta gầy mòn, ra mồ hôi trộm, lòng phiền, xương nóng như lửa trong da.

Khi ấy, có một vị thuốc nhỏ, không mang vị đắng chát, không cần mùi nồng, chỉ là vỏ rễ của cây Kỷ Tử, mà tên là Địa Cốt Bìdịu dàng đến lạ, mà thấm vào sâu.


Giai thoại – chuyện người bệnh ho lâu ngày và bài thuốc từ vỏ rễ cũ

Chàng trai ho khan về đêm, người gầy, sốt nhẹ mỗi buổi chiều. Bao thuốc thanh nhiệt đều không đỡ. Một ông lang già nhìn kỹ, chỉ lặng lẽ đưa cho bó vỏ khô, mảnh mảnh – bảo: “Dùng thứ này – như một lời xin lỗi gửi đến lá phổi mỏi mệt.

Ấy là Địa Cốt Bì – sau một tháng sắc uống đều, tiếng ho ngớt, đêm ngủ yên, lòng nhẹ đi như không còn lửa trong xương nữa.


Nguồn gốc của vị thuốc

Địa Cốt Bì là vỏ rễ phơi khô của cây Câu kỷ (Lycium barbarum), cũng chính là cây sinh ra Câu Kỷ Tử (Kỷ Tử). Thu hoạch vào mùa thu, bóc vỏ rễ già, rửa sạch, phơi âm can hoặc sấy nhẹ.

Dược liệu là vỏ rễ mảnh, mùi thơm nhẹ, vị ngọt mát, tính lương. Là vị thuốc được xếp vào nhóm thanh hư nhiệt – đặc trị các chứng nóng nhẹ âm ỉ – đặc biệt ở người âm hư.


Thành phần – ngọt nhẹ – mát sâu – dưỡng âm – trừ cốt chưng – làm dịu những ngọn lửa không thành tên trong huyết và phế

Địa Cốt Bì (8 – 16g) – vị ngọt, tính lương – quy vào Can – Thận – Phế. Chứa betaine, acid hữu cơ, glycosid, vitamin C… có tác dụng thanh hư nhiệt – trừ cốt chưng – hạ sốt về chiều – dưỡng âm – mát huyết – chỉ khái.

Rất phù hợp với các chứng âm hư sinh nhiệt: sốt nhẹ về chiều, ho gầy lâu ngày, mồ hôi trộm, xương nóng, tâm phiền, lao phổi, sốt sau bệnh dài ngày.


Công dụng – thanh hư nhiệt, trừ cốt chưng, mát huyết, dưỡng âm, chỉ khái, hạ sốt âm ỉ

Trong y học cổ truyền, Địa Cốt Bì có công năng:
thanh hư nhiệt – trừ cốt chưng – dưỡng âm – mát huyết – chỉ khái – hạ sốt.
Thường dùng trong các chứng:

• Sốt âm ỉ về chiều, hâm hấp không rõ nguyên nhân.
• Ho lâu ngày, ho về đêm, ho lao, khô miệng, họng rát.
• Mồ hôi trộm, xương nóng, người khô, da mỏng.
• Trẻ em sốt kéo dài không hạ, hậu bệnh nhiệt.
• Người già suy nhược, lòng phiền, mất ngủ do âm hư.

Một số bài thuốc ứng dụng:

Thanh cốt tán: phối tri mẫu, bạch thược – trị cốt chưng, sốt âm hư.
Địa cốt bì thang: phối hoàng cầm, sinh địa – trị ho lao, sốt chiều.
Thanh tâm tư âm thang: phối mạch môn, sa sâm – trị tâm phiền, mất ngủ.
Địa cốt bì bách hợp thang: phối bách hợp, ngũ vị tử – trị ho khan, khô họng.

Cách lựa chọn dược liệu và bào chế

Địa Cốt Bì là lớp vỏ rễ của cây kỷ tử – loài cây nhỏ sống dai nơi đất khô cằn, càng chịu nắng gió, rễ càng sâu và tích tụ nhiều khí vị. Để làm thuốc, phải chọn rễ già, phần vỏ dày, màu vàng ngà hoặc vàng xám, mềm dai vừa phải, khi cạo lớp thô bên ngoài sẽ lộ phần bì trắng mịn, có vân rõ và mùi thơm nhẹ thoang thoảng mùi đất mới. Vỏ bị mục nát, sậm đen hoặc quá giòn vụn là không đạt yêu cầu.

Khi bào chế, Địa Cốt Bì được rửa sạch, cạo bỏ lớp vỏ ngoài sần sùi, giữ lại lớp bì tinh túy bên trong, rồi phơi khô âm can để tránh bay mất khí vị. Có thể sao qua nếu dùng cho người tỳ vị hư hàn, còn khi cần thanh nhiệt, dưỡng âm – thường để sống để giữ trọn công năng lương huyết, trừ hư nhiệt, tiêu âm hỏa. Vị thuốc ấy – mảnh như tơ – nhưng khi vào cơ thể lại như một dòng nước mát len sâu vào xương tủy, làm dịu đi từng đợt nóng hư, từng cơn ho can hỏa bốc lên từ bên trong.


Bên cạnh những gì chúng ta đã biết thì…

… Địa Cốt Bì là vị thuốc âm thầm dành cho những người đã quá gầy mòn vì nóng trong mà không dám dùng thuốc hàn lạnh:
• Y học hiện đại cho thấy Địa Cốt Bì có tác dụng chống viêm phổi, bảo vệ gan, hạ sốt, hạ đường huyết, tăng miễn dịch.
• Là lựa chọn nhẹ nhàng cho trẻ em sốt dai dẳng – người lớn mất ngủ, ho khan kéo dài – người lao phổi, âm hư nội nhiệt.
• Dùng lâu dài giúp bồi âm, làm mát huyết, ổn định hô hấp, giảm ho khô và khát về đêm.

Về cách bào chế ứng với công dụng:
Sao vàng nhẹ: giảm tính lạnh – dễ dùng cho người tỳ hư.
Sắc thang phối hợp: tăng hiệu lực trừ cốt chưng – hạ sốt.
Tán bột uống hoặc hãm trà: dùng nhẹ, lâu dài, không mệt người.

Gia giảm tùy thể bệnh:

• Nếu sốt chiều, mồ hôi trộm: phối tri mẫu, bạch thược, sinh địa.
• Nếu ho khan về đêm: phối mạch môn, bách hợp, tang bạch bì.
• Nếu mất ngủ do phiền nhiệt: phối dạ giao đằng, táo nhân, viễn chí.
• Nếu trẻ em sốt lâu ngày: phối hoàng liên, địa hoàng, hạ khô thảo.

Đừng quên:

Địa Cốt Bì tính lương – người tỳ vị hư hàn, hay tiêu lỏng, lạnh bụng không nên dùng riêng lẻ kéo dài.
Cần phối hợp với vị ôn, kiện tỳ như cam thảo, bạch truật, gừng sao nếu dùng lâu dài.
Không dùng cho người cảm lạnh, phong hàn ho nhiều đờm trắng.


Địa Cốt Bì – lớp vỏ âm nhu của lòng rễ, vị thuốc của những người không nói ra cơn sốt nhưng lòng luôn rực nhẹ như tro than chưa tắt

Không phải cơn sốt nào cũng dữ dội. Có những cơn sốt ngấm ngầm, lâu ngày, ăn mòn cơ thể như dòng nước chảy trong xương.
Địa Cốt Bì – là vị thuốc cho những lúc như vậy – mềm, mát, nhẹ – nhưng vào sâu, bền lâu, và thấm dịu.

“Rễ già – vỏ mỏng mảnh,
Mát dịu đến tận xương.
Không ào như gió mạnh,
Chỉ làn gió dịu thường…”

 

Địa Cốt Bì
Viết tại hiệu thuốc Khang Chính Đường, tháng 4/2025